GIÁO PHẬN QUI NHƠN
BAN MỤC VỤ GIA Đ̀NH VÀ BAN MỤC VỤ VĂN HÓA
SỔ
TAY
TÂN PHÚC ÂM HÓA
GIA Đ̀NH VÀ GIA TỘC
IMPRIMATUR
Qui
Nhơn, ngày 01 tháng 12 năm 2013
X Matthêô
Nguyễn Văn Khôi
Giám
mục giáo phận Qui Nhơn
Tủ sách Nước Mặn
09
Tân Phúc-âm-hóa là rao
giảng Tin Mừng bằng nhiệt t́nh mới, với
những phương pháp mới và những cách diễn
tả mới, cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Cuộc
Tân Phúc-âm-hóa phải bắt đầu từ mỗi gia
đ́nh công giáo là Hội Thánh thu nhỏ, nhờ đó
mỗi Kitô hữu tái khám phá và làm mới lại đức
tin của ḿnh, đổi mới cuộc sống theo tinh
thần Phúc Âm, để có thể ra đi rao giảng Tin
Mừng cho kẻ khác một cách hăng say và có hiệu
quả.
V́ thế, trong năm 2014
này, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi
mọi người Công giáo Việt Nam cùng nhau phúc-âm-hóa
đời sống gia đ́nh và thúc đẩy các gia
đ́nh tham gia tích cực vào sứ vụ loan báo Tin
Mừng.[1]
Cũng trong năm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ
triệu tập một Thượng Hội Đồng
đặc biệt về gia đ́nh, từ ngày 5
đến 18 tháng 10, với chủ đề: “Các thách
đố mục vụ của gia đ́nh trong bối
cảnh Tân Phúc-âm-hóa”.
Việc Tân Phúc-âm-hóa
đ̣i buộc mỗi gia đ́nh công giáo không những
phải là những cộng đoàn cầu nguyện,
phục vụ sự sống, mà c̣n phải gia tăng đức
ái để trở thành những cộng đoàn yêu
thương kiểu mẫu, trong đó mối tương
quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng
như giữa anh chị em với nhau phải là dấu
chỉ sống động của T́nh Yêu Thiên Chúa, và
cuối cùng phải trở thành những cộng đoàn
tham gia vào sứ vụ phúc-âm-hóa của Giáo Hội.[2]
Để giúp các gia
đ́nh công giáo thực hiện công cuộc Tân Phúc-âm-hóa, Ban
Mục Vụ Gia Đ́nh và Ban Mục Vụ Văn Hóa
của Giáo Phận Qui Nhơn xin gửi đến các gia
đ́nh quyển SỔ TAY TÂN PHÚC ÂM HÓA GIA Đ̀NH VÀ GIA
TỘC gồm 2 phần. Phần I với tựa
đề “Mối bận tâm hiện nay của Hội Thánh
về gia đ́nh”, gồm những văn bản
hướng dẫn của các vị chủ chăn.
Phần II với tựa đề “Một số chỉ
dẫn thực hành”, gồm 54 đề tài cụ thể
được biên soạn ngắn gọn dựa theo giáo
huấn của Hội Thánh và được tập
hợp thành 3 đề mục: “Gia đ́nh giáo dục”, “Gia
đ́nh sống đạo” và “Gia đ́nh truyền giáo”.
Tôi trân trọng giới
thiệu quyển sổ tay này với các gia đ́nh như
một nỗ lực nhỏ bé nhằm giúp các gia đ́nh
thực hiện việc Tân Phúc-âm-hóa chính ḿnh, để
trở thành những cộng đoàn sống đức tin
và truyền bá đức tin trong môi trường sống
của ḿnh.
Qui Nhơn, Chúa nhật I
Mùa Vọng, 01.12.2013
X
Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Giám mục giáo phận
Qui Nhơn
Ngày
20-10-1964, Ṭa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đă chấp
thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt
Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939),
về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.
Để
hiểu rơ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp
thuận này, và để có những chỉ thị
hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng
Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
1)
Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực
hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để
hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho
mọi người. Cố gắng đầu tiên của
Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên
h́nh ảnh đích thực của Thiên Chúa và
được trung thực với sứ mệnh Kitô
hữu của ḿnh, để đạt cứu cánh sau
hết là hạnh phúc đời đời. Công tŕnh đó
được thực hiện trong nội khảm của
mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện
cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt
của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ
tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).
2)
Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo
Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó,
Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá
trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân
tộc. Âu cũng v́ bản tính nhân loại, dù c̣n mang
dấu vết sự sa ngă của tổ tông, song vẫn
giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà
ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh
dưỡng và nâng lên tới một mức độ
đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích
thực. Cũng v́ vậy mà Giáo Hội không bao giờ
miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như
nghệ thuật hoặc văn hóa của người không
Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đă từng góp phần
thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến
chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội
đă thánh hóa những phong tục cũng như những
truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội
cũng đă nhiều lần đem nghi lễ của
miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng
vụ của ḿnh, sau khi đă tu chỉnh cả tinh thần
và h́nh thức, để ghi nhớ mầu nhiệm
hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị
tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli
praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư
tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum,
28-11-1959).
3)
Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo cũng
chủ trương một lập trường rơ rệt.
Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi
lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng
như tôn giáo nào, và lănh đạm để mặc ai
muốn hay không muốn t́m xem Thiên Chúa có mạc khải
một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa
được nhận biết, kính mến và phụng
thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận
một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân
lư của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp
Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều
ǵ vốn là chân lư và thánh thiện của bất cứ tôn
giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là
“đường đi, là chân lư và là nguồn sống” và,
trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm ḥa với muôn vật.
Tuy
nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ư cứu xét những hành
động và sinh hoạt, những luật pháp và lư
thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những
điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại
một tia sáng nào đó của chính cái chân lư hằng soi sáng
mọi người. V́ thế, Giáo Hội khuyên giục con
cái ḿnh tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo
tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để
nắm giữ và phát triển những của cải thiêng
liêng, luân lư và những giá trị xă hội, văn hóa,
gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những
buổi hội thảo, sự học hỏi và sự
cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công
đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô
giáo, ngày 20-11-1964)
Chính
lập trường đó của Giáo Hội
được đúc kết trong tư tưởng
của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công
đồng Vatican, đă giải thích lư do của quyết
định Ṭa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane
compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo
tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại
Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đă cho công
bố thông cáo này.
1)
Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam,
có tính cách tôn giáo, nhưng nay v́ sự tiếp xúc với bên
ngoài và v́ tâm t́nh, tập quán đă thay đổi nhiều,
nên chỉ c̣n là những phương cách biểu lộ ḷng
hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các
bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái
độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch
sự và xă giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những
không ngăn cấm mà c̣n mong muốn và khuyến khích cho nó
được diễn tả bằng những cử
chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi
xứ và tùy theo trường hợp.
V́
thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ
tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ư nghĩa thế
tục rơ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, ḷng
hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ
tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo
ảnh, h́nh, dựng tượng, nghiêng ḿnh bái kính, trưng
hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) th́
được thi hành và tham dự cách chủ động.
2)
Trái lại, v́ có nhiệm vụ bảo vệ đức
tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không
thể chấp nhận cho người giáo hữu có
những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do
hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lư ḿnh dạy.
V́
thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp
với giáo lư Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào
biểu lộ ḷng phục tùng và sự lệ thuộc
của ḿnh đối với một thụ tạo nào như
là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị
đoan rơ rệt (như đốt vàng mă), hoặc cử
hành ở những nơi dành riêng cho việc tế
tự... th́ giáo hữu không được thi hành và tham
dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ,
chỉ được hiện diện một cách thụ động
như đă ấn định trong giáo luật, khoản
1258 (GL 1917).
3)
Đối với những việc mà không rơ là thế
tục hay tôn giáo, th́ phải dựa theo nguyên tắc này, là
nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng
địa phương không coi như sự tuyên xưng tín
ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ
biểu lộ một tâm t́nh tự nhiên, th́ được
coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên
được thi hành và tham dự. Trong trường
hợp chưa hết nghi nan, th́ có thể hành động
theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, th́
phải giải thích chủ ư của ḿnh một cách khéo léo,
hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng
chỉ được có tính cách thụ động.
Đó
là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải
dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh.
Trong trường hợp hồ nghi, mọi người
liên hệ không được theo ư riêng ḿnh, mà sẽ phán
đoán theo chỉ thị của Ṭa Thánh và bàn hỏi
với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu
cầu quư cha phổ biến rộng răi và giải thích
tường tận thông cáo này không những trong các nhà
thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em
giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ
trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này
làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các
buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492
§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của người không Công giáo.
§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài v́ trách nhiệm dân sự hoặc v́ danh tiếng, bởi có lư do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đă được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi.
Chúng
tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII
về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày
12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho
phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những
quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về
Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông
Bà Tổ Tiên, như sau:
“Để
đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin
Mừng, hội nghị nhận định: Những
cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách
thế tục lịch sự xă giao để tỏ ḷng
hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ
Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi
hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).
1.
Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên
được đặt dưới bàn thờ Chúa trong
gia đ́nh, miễn là trên bàn thờ không bày biện
điều ǵ mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2.
Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn
thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ,
giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ
thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép
làm.
3.
Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được
“cúng giỗ” trong gia đ́nh theo phong tục địa
phương miễn là loại bỏ những ǵ là dị
đoan mê tín, như đốt vàng mă, và giảm thiểu
cùng canh cải những lễ vật biểu dương
đúng ư nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa
trái, hương đèn.
4.
Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ,
Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ
Tổ tiên, v́ đó là nghi lễ tỏ ḷng biết ơn,
hiếu kính tŕnh diện với Ông Bà.
5.
Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài
người quá cố, đốt hương vái theo phong
tục địa phương để tỏ ḷng cung kính
người đă khuất cũng như Giáo Hội cho
đốt nến, xông hương nghiêng ḿnh trước
thi hài người quá cố.
6.
Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng
quen gọi là phúc thần tại đ́nh làng, để
tỏ ḷng cung kính biết ơn những vị mà theo
lịch sử đă có công với dân tộc hoặc là ân
nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như
đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc
trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải
thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm…
Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho
hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng
liệt sĩ theo phong tục địa phương, là
một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo
làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính
liên quan đến tín ngưỡng, v́ chính Chúa cũng truyền
phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau
việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974
Kư tên:
- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế
- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho
- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long
- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ
- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang
- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột
- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn
Kính gửi:
Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam.
LỜI
MỞ
1. Từ
Đại Hội Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam lần thứ X tổ chức tại Toà Tổng Giám
Mục Hà-nội từ 08 đến 12-10-2007, chúng tôi,
Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc 26 giáo
phận Việt Nam, xin gửi lời chào thân ái và lời
chúc b́nh an đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa
Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại.
Đặc biệt, trong t́nh hiệp thông liên đới và
lời cầu nguyện, chúng tôi bày tỏ niềm cảm
thông và phân ưu sâu sắc đối với các thân nhân và
nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ ngày 26-09-2007
và cơn băo số 5 (Lekima) ngày 02-10-2007.
2.
Anh chị em thân mến,
Với
các thư trước, chúng ta đă đào sâu việc
thực hành đức tin qua phong cách sống mầu
nhiệm Thánh Thể (2004), sống Lời Chúa (2005) và
sống Đạo (2006). Tiếp tục theo đuổi
định hướng đó và trong viễn ảnh chúng ta
đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập
hàng Giáo phẩm vào năm 2010, Thư Chung năm nay lấy
giáo dục Kitô giáo làm chủ đề. Điều đó
thật đúng lúc khi mà khắp nơi trên thế giới,
giáo dục đang là một vấn đề thời
sự nóng bỏng và đặc biệt hơn nữa,
tại Việt Nam, nhiều người cho rằng đă
đến lúc cần phải cương quyết nói không với
tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục.
3.
Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không
chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích
đối với bản thân, gia đ́nh và xă hội, mà c̣n
là giúp con người sống xứng đáng với tư
cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân
nước trời. Sứ mạng đó được
khơi nguồn từ Chúa Cha, được thực
hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ
Chúa Thánh Thần.
I. NỀN TẢNG GIÁO
DỤC KITÔ GIÁO
Chúa Cha Và Công Tŕnh Tạo Dựng
4.
Công tŕnh giáo dục Kitô giáo, trước khi là công khó của
con người, đă là kế hoạch của Thiên Chúa. Khi
tạo dựng con người giống h́nh ảnh Ngài, ban
cho con người khả năng đạt tới chân lư
và tự do (x. Hc 17, 3 &7), Thiên Chúa Cha đă định
hướng công tŕnh sáng tạo vũ trụ của Ngài
bằng một đường lối sư phạm
mềm dẻo phù hợp với lợi ích và thái độ
đón nhận của con người. Thuở ban
đầu, v́ Dân Ngài chọn c̣n cứng ḷng nên Thiên Chúa xem
ra nghiêm khắc (x. Lv 26, 14-46; Đnl 28, 15-45), nhưng
dần dà, từng bước một, Ngài tỏ cho họ
thấy Ngài vẫn là một Thiên Chúa “thành tín trong mọi
lời Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi
việc Ngài làm” (Tv 144, 13b).
Chúa Con Và Tin Mừng Cứu Độ.
5.
Đường lối sư phạm của Chúa Cha cốt
là để chuẩn bị cho Chúa Con đến “dạy
dỗ loài người mong chờ và đón nhận ơn
cứu độ”. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng
định ḿnh “là đường, là sự thật và là
sự sống” (Ga 6, 14). Muốn nắm bí quyết sự
sống đích thật, con người phải đến
thụ huấn tại trường học của Chúa
Giêsu. Nhưng học nơi trường Chúa Giêsu không
chỉ là học làm người theo nghĩa nhân bản mà
c̣n là học “nên hoàn thiện như Cha trên trời là
Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Chúa Thánh Thần Và Vai Tṛ Tác Thành.
6. Những con người đầu
tiên xuất thân từ trường học của Chúa Giêsu
là các tông đồ. Chúa Giêsu là thầy dạy nhưng chính
Thánh Thần mới là Đấng tác động để
giáo huấn của Chúa Giêsu, qua lời rao giảng của
tông đồ, trở thành sức mạnh biến
đổi tâm hồn người nghe. Nhờ Thánh Thần,
Thánh Phaolô đă cảm thấy lời rao giảng của
ngài được đón nhận 'như chính Lời Thiên
Chúa' (x. 1 Thes 2,13). Ngài c̣n quả quyết: “Thần Khí làm cho
anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu
lên: Abba, Cha ơi” (Rm 8,14-17).
Giáo Hội Và Sứ Mạng Giáo Dục.
7. Trước khi về trời, Chúa
Giêsu đă trao cho Giáo Hội sứ mạng lên
đường dạy dỗ muôn dân. Từ đó, giáo
dục trở thành sứ mạng gắn liền với sự
hiện diện của Giáo Hội giữa ḷng thế
giới. Giáo Hội chính là người Mẹ “săn sóc toàn diện đời sống con
người, kể cả đời sống trần
thế, trong mức độ liên hệ với lời
mời gọi của Thiên Chúa. V́ thế Giáo Hội thông
phần vào việc mở mang và phát huy nền giáo dục”
(TN/GD, lời mở đầu). Sứ mạng của Giáo
Hội là tạo điều kiện để mọi
người đều được hưởng
một nền giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 2).
Sứ
mạng đó được thể hiện thế nào
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đó là vấn
nạn cần phải đặt ra, nếu chúng ta muốn
có những định hướng cụ thể cho sứ
mạng giáo dục Kitô giáo của Giáo Hội Việt Nam.
II. HIỆN T̀NH GIÁO
DỤC KITÔ GIÁO TẠI VIỆT NAM
Những Dấu Hiệu Lạc Quan
8. Dù c̣n phải đối diện
với vô vàn khó khăn của thời đại - cơn
khủng hoảng về chân lư, về các giá trị
đạo đức, chủ nghĩa tương
đối - lănh vực giáo dục hiện nay, trong môi
trường xă hội cũng như Giáo Hội, đă
được quan tâm hơn và đang có những chuyển
biến tích cực. Về phía xă hội, hiện đang có
nhiều nỗ lực lành mạnh hóa môi trường giáo
dục, bài trừ bệnh thành tích và tiêu cực trong
học hành thi cử. Về phía phụ huynh, không ít
người sẵn sàng chắt chiu dành dụm từng
đồng cho con cái ăn học. Những trung tâm
luyện thi, lớp ngoại khóa mọc lên như nấm
khắp nơi mà vẫn không đủ đáp ứng nhu
cầu học viên mỗi lúc một gia tăng.
9.
Về phía người Công giáo, sự hiện diện
của giới trẻ trong môi trường giáo dục xă
hội đă phần nào được b́nh thường
hóa: lư lịch Thiên Chúa Giáo không c̣n bị kỳ thị và
phân loại như trước đây. Nhờ đó, số
sinh viên Công giáo bậc đại học đă tăng lên
đáng kể, ngay cả tại những miền thôn quê.
Trong lănh vực đức tin, các lớp giáo lư dự ṭng và
hôn nhân ngày càng đông học viên cho thấy giới trẻ
Việt Nam ngày nay, ngược với trào lưu dửng
dưng tôn giáo phương Tây, vẫn c̣n quí trọng
những giá trị Kitô giáo.
10.
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và tin
học ngày càng được xử dụng rộng răi
hơn trong mọi lănh vực xă hội, cũng đă góp
phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hóa
ngành giáo dục trong xă hội cũng như Giáo Hội.
Những Mối Quan Ngại
11.
Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu lạc quan,
cũng không thiếu những điều đáng quan
ngại. Trước hết phải kể đến
những lệch lạc trong quan niệm về giáo dục.
Do ảnh hưởng của năo trạng duy kinh tế,
nền giáo dục gia đ́nh đang bị khủng
hoảng. V́ phải chạy theo công ăn việc làm,
người ta không c̣n dành th́ giờ cho các cuộc sum
họp đầm ấm gia đ́nh, những bữa ăn
đông đủ càng lúc càng hiếm hoi. Tương quan
vợ chồng, cha mẹ, con cái v́ thế mà mỗi lúc
một lỏng lẻo suy yếu. Hậu quả là môi
trường gia đ́nh, vốn được mệnh danh
là “mái ấm”, không c̣n nồng nàn t́nh cảm như xưa.
Chủ
nghĩa khoa bảng cũng đang gây ra nguy cơ
đưa gia đ́nh vào thái độ háo danh. Bậc
phụ huynh và ngay cả con cái, muốn có bằng cấp
chủ yếu là để được nở mày nở
mặt, để có công ăn việc làm tốt, mà quên
đi rằng mục đích cao đẹp nhất của
giáo dục là “ngày nay học tập ngày mai giúp đời”.
12.
Điều cũng đáng quan ngại là bất cập
trong phương cách giáo dục. H́nh như người ta
chỉ quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế mà coi nhẹ chiều kích phẩm
cách làm người. Học sinh đến trường
nghĩ đến đối phó với thi cử nhiều
hơn là học làm người. Nhà trường quan tâm
đến chỉ tiêu và kỳ tích nhiều hơn là
đến sứ vụ xây dựng thực lực cho
học sinh.
13.
Chủ nghĩa giáo điều trong giảng dạy vẫn
c̣n là một hiện tượng khá phổ biến.
Thầy cô thường dạy cho học sinh cách sao chép
nguyên mẫu kiến thức, ấn định những
bài văn mẫu, làm bài theo đáp án mẫu nhiều hơn
là huấn luyện họ biết sáng tạo, t́m ṭi
bằng chính nỗ lực riêng của ḿnh.
14.
Mặt trái của phương tiện truyền thông
cũng là một trong những yếu tố tác hại giáo
dục. Tuy góp phần thắp lên nhiều điểm sáng
về những giá trị nhân bản, truyền thông cũng
tạo cơ hội cho nhiều lạm dụng đáng tiếc.
V́ thiếu ư thức, người sử dụng - phần
lớn là giới trẻ - thay v́ thận trọng gạn
lọc để tiếp thu tinh hoa, lại sa vào cạm
bẫy của những loại h́nh văn hóa phi đạo
đức.
15.
Trong lănh vực đức tin, nhiều bậc phụ huynh
công giáo, kể cả các vị mục tử, vẫn c̣n
lơ là hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thông
truyền đức tin cho con cái, không tổ chức
hoặc không lo lắng cho con em tham dự những lớp
giáo lư tại giáo xứ.
Một
số nơi, giáo lư vẫn c̣n bị xem là những bài lư
thuyết cần phải thuộc ḷng để
được lănh bí tích. Việc giảng dạy chưa
thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp
và chưa đi với chứng từ sống động
của người rao truyền.
Những
bất cập trên đây đ̣i chúng ta phải điều
chỉnh lại cung cách giáo dục đức tin cho đúng
tinh thần Tin Mừng. Cụ thể là phải đề
ra phương hướng để hành động cho
Kitô hữu Việt Nam trong giai đoạn lịch sử
hiện nay.
III. ĐỊNH
HƯỚNG GIÁO DỤC KITÔ GIÁO
16.
Ư thức sứ mạng quan trọng đối với
tương lai Giáo Hội và tiền đồ dân tộc,
Giáo Hội Việt Nam muốn dấn thân trong sự
nghiệp giáo dục để thực hiện sứ
mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho
mọi người cách hiệu quả và thiết thực
hơn. Trong tinh thần đó, chúng tôi kêu gọi những
người có trách nhiệm giáo dục và mọi Kitô
hữu Việt Nam hăy chú trọng hơn nữa đến
sứ mạng cao cả này, một sứ mạng mang
nhiều đặc tính biệt loại so với nền
giáo dục xă hội trần thế.
Một Sứ Mạng Mang Tính Phổ Cập.
17.
Cũng như Đức Giêsu được sai đến
với muôn dân (xem Lc 4,18-19), Giáo hội cũng có sứ
mạng đem Tin Mừng đến cho mọi
người (Mc 16,15), không phân biệt thành phần,
đẳng cấp xă hội hay điều kiện kinh
tế. Sứ mạng đó không phải chỉ là sứ
mạng của riêng thành phần nào, nhưng bao trùm toàn
thể Giáo Hội mọi nơi mọi thời, mỗi cá
nhân và mỗi cộng đoàn (x. TH/KTHGD 1).
18.
Sứ mạng đó bắt đầu bằng công cuộc
nhập thế do công đồng Vatican II đề ra.
Trước khi truyền đạt đức tin, Giáo
Hội có sứ mạng “phục vụ lợi ích của
xă hội trần thế và xây dựng một thế
giới nhân đạo hơn” (TN/GD 3). Muốn vậy, Giáo
Hội cần phải có chỗ đứng trong nền
giáo dục của bất kỳ thể chế xă hội nào.
Tại Việt Nam, điều đáng lạc quan là giáo
dục, từ trước vẫn được coi là lănh
vực độc quyền của Nhà Nước, nay đă
được “xă hội hóa”. Theo định hướng
đó, tư nhân, thậm chí người nước ngoài,
có quyền mở trường tư thục.
19.
Nhưng cũng đáng tiếc là đối với các
tổ chức tôn giáo tại Việt nam, cánh cửa giáo
dục vẫn c̣n khép chặt: tôn giáo chỉ có quyền
mở trường tư thục cấp mẫu giáo. Dù
vẫn không ngừng nỗ lực làm tất cả
những ǵ được phép để thể hiện
sứ mệnh nhập thế, như mở lớp t́nh
thương, lập quỹ học bổng cho học sinh
nghèo hoặc khuyết tật, Giáo Hội công giáo, với
tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải
đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xă
hội Việt nam và, v́ không có quyền nhập cuộc,
đành đóng vai một quan sát viên bất đắc
dĩ.
20.
Trong lănh vực đức tin, có lẽ h́nh ảnh
đẹp nhất để diễn tả nét sinh
động của nền giáo dục Kitô giáo là h́nh ảnh
cành nho của Chúa Giêsu (x. Ga 15, 16). H́nh ảnh đó
đặc biệt rơ nét hơn trong hoạt động
của các giáo lư viên. Họ giống như những cành nho
gắn liền với thân nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống
Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để chuyển
đến các học viên bằng chứng từ rao
giảng và thực thi huấn lệnh Chúa.
21.
Theo nghĩa đó, mọi Kitô hữu chúng ta đều là
giáo lư viên, bởi v́ qua bí tích rửa tội, chúng ta
được mời gọi tham gia vào một công tŕnh giáo
dục trong đó, theo lời Đức Gioan Phaolô II,
“mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là
khởi điểm của việc huấn luyện: chúng
ta càng tự rèn luyện ḿnh, càng có khả năng huấn
luyện người khác” (TH/KTHGD 7). Học và dạy
cũng là củng cố đức tin cho ḿnh và cho anh
chị em ḿnh (x. Lc 22, 31-33). Bao lâu c̣n là phần tử
của Giáo Hội lữ hành, chúng ta c̣n là học tṛ và c̣n là
thầy dậy đức tin bằng chứng từ
cuộc sống của chúng ta.
Các Đối Tượng Ưu Tiên
22. Tính phổ cập của nền giáo
dục Kitô giáo một mặt không miễn trừ trách
nhiệm cho bất kỳ ai, một mặt cũng đ̣i
buộc Kitô hữu không được loại trừ
bất kỳ đối tượng nào. Muốn thế,
Kitô hữu cần quan tâm hơn đến những thành
phần thường bị xă hội ruồng rẫy, khinh
miệt, lăng quên: người thất học, trẻ em
không có điều kiện đến trường, thành
phần cô lập do mặc cảm hay bị kỳ thị.
Chúa Giêsu khẳng định rằng sứ mệnh hàng
đầu của Ngài là loan báo Tin Mừng cho người
nghèo khó, lao tù, mù ḷa, bị áp bức (Lc 4, 18ss).
23.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa của những xă
hội đang phát triển, nghề nông thủ công
truyền thống không c̣n đủ lợi tức nuôi
sống người lao động, rất nhiều
người trong họ không c̣n con đường nào khác
hơn là trở thành di dân về thành thị t́m công ăn
việc làm. Họ phải chịu bao nhiêu thứ thiếu
thốn thiệt tḥi cả về vật chất lẫn
tinh thần trên đất khách quê người. Để
có thể duy tŕ phần nào đời sống đức
tin có nguy cơ bị công ăn việc làm vùi dập.
Họ cần phải ḥa ḿnh vào bầu khí đạo
đức của các giáo xứ nơi họ tạm cư.
Cha xứ và giáo xứ địa phương cũng
cần phải sẵn ḷng nâng đỡ, chia sẻ, đón
tiếp dân, tạo điều kiện để họ
sớm hội nhập vào các sinh họat đạo
đức và văn hóa nơi họ sinh sống. Lời Chúa
và khung cảnh t́nh thân của giáo xứ là môi trường
và là điều kiện cần thiết để an
ủi và khích lệ đức tin của họ nơi Thiên
Chúa, Đấng có đủ quyền năng biến
cảnh sống tha hương của họ thành cuộc
hành hương đầy ư nghĩa hướng về Quê
Trời.
24.
Thiếu nhi và giới trẻ cũng là những thành
phần rất đáng quan tâm ở hàng ưu tiên. Thiếu
nhi, những trang giấy trắng đang chờ in
những h́nh ảnh tươi đẹp, cần phải
được thụ hưởng một nền giáo
dục chân chính về nội dung và hiệu quả về
phương pháp, làm vốn liếng hành trang hữu ích cho
suốt cuộc hành tŕnh làm người và đức tin.
25.
Giới trẻ, “tương lai của Giáo Hội và
thế giới” (HT/VH 38), cần phải nhận
được sự hướng dẫn tận t́nh
từ các nhà giáo dục và các thế hệ đi
trước để nhiệt huyết tuổi trẻ
của họ thực sự được vận
dụng vào công cuộc xây dựng xă hội và Giáo Hội.
Môi Trường Giáo Dục
26.
Trách nhiệm giáo dục đức tin thuộc về
mọi Kitô hữu. Tuy vậy, trong thực tế, các “nhà
giáo” mới thực sự là những người
được trao phó trách nhiệm giáo dục chuyên
nghiệp. Đức Gioan Phaolô II trong Tông Huấn Kitô
Hữu Giáo Dân đă thiết tha kêu gọi các giáo viên
đang giảng dạy tại các trường Công giáo hay
không Công giáo tích cực làm nhân chứng cho Tin Mừng (x.
TH/KTHGD 6). Như thế ngoài cuộc sống mẫu mực
của một nhà giáo, họ c̣n là đại sứ của
Đức Kitô nơi học đường bằng chính
đời sống và lương tâm Kitô hữu. Mọi
người sẽ nh́n thấy họ mà gặp
được Thiên Chúa.
27.
Đại chủng viện và Học viện Công giáo,
những trung tâm giáo dục có hệ thống nhân sự và
phương tiện đầy đủ nhất, phải
đóng đúng vai tṛ của ḿnh bằng việc “đào
tạo những người sẽ đảm nhận công
việc huấn luyện giáo dân” (x. TH/KTHGD 7). Các cơ
sở này không những chỉ cung cấp cho Giáo Hội
những thầy giáo, mà c̣n đào tạo các môn đệ
của Chúa Giêsu. Mỗi học viên sẽ rời học
viện vào một lúc nào đó khi măn trường hay khi
đi nhận một nhiệm vụ mới, nhưng không
bao giờ rời trường học của Chúa Giêsu,
vị Thầy muôn thuở của các nhà giáo dục đào
tạo.
28.
Gia đ́nh là Giáo Hội tại gia, là trường học
tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo.
Mọi thành viên của gia đ́nh, ông bà, cha mẹ và các anh
chị em sống đạo nhiệt thành làm thành truyền
thống đức tin gia đ́nh. Nơi đây, đức
tin được truyền thụ qua những lời
cầu nguyện, lời nhủ bảo, đặc
biệt trong những biến cố vui buồn của
cuộc sống và qua những mẫu gương
đức tin. Gia đ́nh c̣n là “chiếc nôi của sự
sống và t́nh yêu” (GHXH/GH 209) giúp các phần tử gia
đ́nh cảm nghiệm t́nh yêu và ḷng trung thành của Thiên
Chúa, đồng thời cũng giúp h́nh dung trước
những mối tương quan liên vị trong xă hội.
29.
Trong nền giáo dục Kitô giáo, gia đ́nh không thể tách
rời khỏi giáo xứ. Nếu tại gia đ́nh,
đức tin được truyền thụ bằng
phương pháp tiếp cận và thực hành, những bài
học được giảng dạy ngay giữa thực
tế. Tại giáo xứ, đức tin được
thông truyền nhờ giảng giải và việc cử hành
phụng vụ. Chính khi đối chiếu và đón
nhận cảm tưởng của nhau, đoàn kết yêu
thương nhau và cầu nguyện chung với nhau,
đức tin của Kitô hữu được nuôi
dưỡng và củng cố.
30.
Với những lớp huấn giáo là những phương
cách căn bản của giáo dục Kitô giáo, cha xứ cùng
với các giảng viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm
Kitô giáo và huấn giáo cho các học viên chuẩn bị lănh
các bí tích. Tại đây, giáo dân có môi trường thể
hiện đức tin với các thành phần khác của
cộng đ̣an và được tham dự cách ư thức
vào các giờ kinh lễ, phụng vụ, bí tích. Đó là
những h́nh thức tham gia trực tiếp và hữu
hiệu vào công tŕnh giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 4).
31.
Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các đoàn thể
Công Giáo và cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng là
những môi trường không thể thiếu để
giáo dục Kitô giáo được triển nở ṭan
vẹn và quân b́nh.
Tính Toàn Diện Của Giáo Dục Kitô Giáo
32.
Là Mẹ và là Thầy, Giáo Hội Công giáo có bổn phận
thông truyền cho mọi người, nhất là các Kitô
hữu, một nền giáo dục toàn vẹn. Mục tiêu
hàng đầu của giáo dục Kitô giáo là đức tin.
Giáo dục đức tin không chỉ là truyền lại cho
tín hữu những định tín, nhưng c̣n giúp cho tín
hữu sống đức tin ấy trong cuộc sống
cụ thể, v́ 'đức tin không có việc làm là
đức tin chết' (Gia. 2,17). Các tín hữu, nhờ
được huấn luyện, sẽ trở thành men,
thành muối và ánh sáng cho trần gian.
33.
V́ con người là linh hồn nhập thể, khi giáo
dục đức tin, Giáo Hội cũng nhằm
đến giáo dục con người toàn diện
để giúp họ nhận ra phẩm giá của ḿnh. Khi ư
thức sâu sắc về phẩm giá của ḿnh, Kitô hữu
cũng nhận lấy sứ mạng để sẵn sàng
lên đường loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô cho
người chưa tin và củng cố ḷng tin của anh
chị em ḿnh. Phẩm giá Kitô hữu luôn là những bài
học suốt đời c̣n tiếp tục, v́ tín hữu
măi là khách hành hương. Phẩm giá ấy đang h́nh thành
và sẽ chỉ thành toàn vào ngày cánh chung. Cũng như
sứ mạng tín hữu măi măi là được sai đi,
tới cánh đồng lúa chín đang thiếu thợ
gặt (x. Mt 9,37). Vấn đề giáo dục Kitô giáo
ở đây hôm nay là quyết tâm bồi dưỡng
phẩm giá để thực thi sứ mạng và càng
biết thực thi sứ mạng, phẩm giá lại càng
được củng cố hơn.
34.
Con người sống trong xă hội không phải là
một ốc đảo, nhưng liên đới với
nhau trong niềm vui cũng như ưu sầu. Xă hội
tính là một nét nổi bật của con người. Giáo
dục Kitô giáo góp phần cổ vơ t́nh liên đới, làm
cho con người có trách nhiệm với nhau, trách nhiệm
đối với xă hội và công ích, cùng xây dựng
một cuộc sống tốt đẹp an b́nh.
35.
Luôn ư thức về sứ mạng làm chứng cho Chân lư,
Giáo Hội của Đức Kitô trải qua mọi
thời đại đă góp tiếng nói của ḿnh qua
những giáo huấn mang tính xă hội. Nhờ đó, Giáo
Hội chia sẻ với nhân loại 'những vui mừng
và hy vọng, ưu sầu và lo lắng' (x. GS 1). Với giáo
huấn của ḿnh, Giáo Hội t́m cách công bố Tin Mừng
và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống các
mối quan hệ xă hội. Khi đưa ra những
chủ trương và đường lối của ḿnh
trong lănh vực xă hội, Giáo Hội thi hành sứ mạng
ngôn sứ của ḿnh trước những trào lưu đi
ngược lại với giáo huấn Tin Mừng và
đạo đức xă hội.
36.
Giáo dục Kitô giáo c̣n nhấn mạnh việc huấn
luyện lương tâm: Huấn luyện lương tâm
không chỉ là giảng dạy cho nhau những mệnh
lệnh của hệ thống luật luân lư nhưng c̣n là
tập cho nhau hồn nhiên lắng nghe ḷng ḿnh phán đoán
thiện ác. Bởi v́ “lương tâm là luật tự nhiên
vốn phản ảnh phẩm giá con người và
đặt nền tảng cho các nghĩa vụ căn
bản của con người” (GHXH/GH 140), nên “lương
tâm ngay thẳng càng thắng thế th́ những cá nhân càng
tránh được độc đoán, mù quáng và càng nỗ
lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của
luân lư” (GS 16). Khi có lương tâm ngay thẳng, con người
sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc
sống công bằng, tôn trọng phảm giá và sự
sống con người hơn.
37.
Sau hết, v́ luôn là một sinh họat gắn liền
với một không gian nhất định, giáo dục
phải được liên kết với truyền
thống văn hóa của không gian ấy. Đặt vấn
đề giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam có nghĩa
là đặt vấn đề phát huy truyền thống
văn hóa Việt Nam. Dân tộc chúng ta luôn tự hào về
tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo.
Truyền thống ấy nếu trong quá khứ đă góp
phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản
sinh những danh nhân làm vẻ vang đất nước,
th́ nay phải trở thành một trong những tiêu chí
của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam.
38.
Giáo dục là cả một công tŕnh lâu dài không thể hoàn
thành ngay. Tuy nhiên từng bước một, cần
phải đưa ra những mục tiêu mũi nhọn cho
từng giai đoạn. Đại hội năm nay
đề ra phương hướng chấn chỉnh
lại nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam, có nghĩa
là phương hướng đó sẽ được
thể hiện trong những năm tới. Cụ thể,
chúng tôi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa hăy thực
hiện ba bước sau đây:
-
2008: chấn chỉnh môi trường giáo dục gia đ́nh
công giáo.
-
2009: chấn chỉnh việc đào tạo giáo lư viên.
-
2010: chấn chỉnh cơ sở giáo dục các giáo xứ.
LỜI
KẾT
39.
Anh chị em thân mến,
Giáo
dục Kitô giáo là công tŕnh học và sống làm con
người và làm con Chúa. Đây là trách nhiệm của
mọi Kitô hữu mọi nơi mọi thời. Thế
hệ trước có trách nhiệm chuyển giao đức
tin cho thế hệ sau. Thế hệ sau tiếp nhận,
củng cố và bàn giao cho thế hệ hậu sinh.
Lịch sử là một cuộc hành tŕnh qua đó Kitô
hữu chia sẻ đức tin cho nhau dưới sự
soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
Giáo
dục Kitô giáo c̣n là một sứ mạng cấp bách.
Sự thay đổi choáng ngợp của nền văn
minh thời đại không cho phép chúng ta chần chừ tŕ
hoăn, nếu không muốn bị đẩy vào nguy cơ
tụt hậu. Hơn bao giờ hết phương châm mà
chúng ta phải nêu cao là: “Giáo dục hôm nay, xă hội và Giáo
Hội ngày mai”.
Dưới
sự bảo trợ của Mẹ La Vang, thánh Giuse, các thánh
Tử Đạo Việt Nam, xin mời anh chị em cùng
chung vai gánh vác mọi phận vụ của công tŕnh giáo dục
Kitô giáo để, với đức tin sống
động, Giáo Hội Việt Nam sẽ nỗ lực làm
vinh danh Chúa hơn và góp phần xây dựng hạnh phúc cho
mọi người.
Hiệp
thông cùng anh chị em trong tâm t́nh cảm tạ và tôn vinh Thiên
Chúa.
Hà Nội
ngày 12 tháng 10 năm 2007
X Phêrô
Nguyễn Văn Nhơn X Giuse Ngô
Quang Kiệt
Chủ
tịch HĐGM/VN Tổng
thư kư HĐGM/VN
Anh chị em thân mến,
“Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta, t́nh yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của
Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em” (x.
2Cr 13,13). Chúng tôi, các giám mục từ 26 giáo phận Việt
Nam, quy tụ tại Trung Tâm Mục Vụ Sài G̣n để
tham dự Đại hội lần thứ XII của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam, xin cảm ơn anh chị em đă cầu nguyện nhiều
cho chúng tôi để Đại hội diễn ra cách tốt
đẹp và b́nh an. Nay Đại hội đă kết thúc,
qua Thư Chung này, chúng tôi muốn chia sẻ với anh chị
em những công việc đă làm trong Đại hội,
cách riêng về sứ vụ Tân Phúc-Âm-hoá.
1. Bước vào
Đại hội trong khung cảnh Năm
Đức Tin, chúng tôi vui
mừng được nghe biết về những hoa trái
thiêng liêng nơi các tín hữu cũng như các cộng
đoàn giáo xứ, giáo phận, ḍng tu, đă tích cực
học hỏi và nỗ lực canh tân đời sống
đức tin. Các cuộc cử hành phụng vụ và sinh
hoạt mục vụ đă giúp cho đức tin của
mỗi người được thanh luyện, củng
cố và đổi mới. Đồng
thời, khi nghe biết về những khó khăn và thử
thách mà một số cộng đoàn phải đối
diện, chúng tôi hiểu rằng sống đức tin luôn
luôn là một thách đố, nhưng trong bất cứ hoàn
cảnh nào, người môn đệ Chúa Giêsu vẫn
được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng yêu
thương của Chúa, trở thành chất xúc tác cho việc
xây dựng nền văn minh t́nh thương và văn hóa
sự sống.
Ngoài ra, chúng tôi cũng lắng nghe và góp ư cho
nhau về nhiều sinh hoạt và công việc của Hội
Thánh tại Việt Nam , cách riêng là công tŕnh xây dựng Trung
Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang. Đại hội
cũng dành nhiều thời giờ cho việc bầu chọn
Ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục
cũng như các chủ tịch của các Ủy ban trực
thuộc Hội Đồng Giám Mục trong nhiệm kỳ
mới.
2. Giờ đây
chúng tôi muốn chia sẻ với anh chị em về
định hướng và chương tŕnh mục vụ
trong những năm tới. Trong ba năm qua (2010-2013),
tất cả chúng ta đă cùng nhau học hỏi và sống
ư nghĩa Giáo
Hội: mầu nhiệm – hiệp thông – sứ vụ. Định
hướng đó và tinh thần của Năm Đức
Tin cần được tiếp nối bằng nỗ
lực “Tân
Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”, cũng là
chủ đề của Thượng Hội Đồng
Giám Mục lần thứ XIII, diễn ra tại Rôma, từ
ngày 7 – 28 tháng 10 năm 2012. Thật vậy, ánh sáng
Đức Kitô chiếu tỏa trên khuôn mặt các Kitô
hữu và ánh sáng ấy phải lan đến những
người khác, giống như từ ngọn nến
phục sinh, vô vàn những ngọn nến khác
được thắp lên trong Đêm Vọng Phục Sinh.[3]. Ngoài ra, chúng ta
c̣n được nhắc nhở cách riêng về sứ
mệnh đó trong năm nay, khi Hội Thánh tại Việt
Nam kỷ niệm 25 năm tuyên phong 117 chứng nhân
đức tin (19.06.1988 – 19.06.2013), là những hoa trái thánh thiện
của công cuộc phúc-âm-hóa.
3. Mục tiêu của phúc-âm-hóa là dẫn
mọi người vào cuộc gặp gỡ cá vị
với Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần, nhờ đó
gặp gỡ Thiên Chúa Cha của Người, cũng là Cha
của chúng ta, và để đời sống ḿnh
được biến đổi theo tinh thần Phúc Âm.
Như thế, trước hết chính bản thân chúng ta
phải được phúc-âm-hóa, phải củng cố và
làm mới lại đức tin của ḿnh, rồi mới
có thể giúp những anh chị em đă xa rời
đức tin tái khám phá vẻ đẹp và ánh sáng
đức tin. Ngày nay, khi một số người chỉ
c̣n là Kitô hữu trên danh nghĩa, chúng ta hăy sống cho
đúng với ơn gọi Kitô hữu của ḿnh trong
niềm vui, hăy chiếu tỏa sức hấp dẫn
của Tin Mừng cho những người chung quanh.
Phúc-âm-hóa là sứ vụ mang tính toàn diện,
v́ “ánh sáng đức tin không chỉ soi chiếu đời
sống nội bộ của Hội Thánh hoặc chỉ
để xây dựng thành đô vĩnh cửu trong thế
giới mai sau, mà c̣n giúp chúng ta xây dựng xă hội hiện
nay nhằm hướng tới một tương lai hi vọng”.[4] Chính Chúa Giêsu dạy chúng ta hướng đi
này. Người đứng về phía những nạn nhân
của các thảm họa và bất công. Người liên
đới với những ai bị xă hội loại bỏ.
Liên đới và xót thương những nạn nhân và những
người bị gạt ra bên lề xă hội phải trở
thành đ̣i hỏi thiết yếu trong sứ vụ
phúc-âm-hóa.[5]
4. “Tân
Phúc-âm-hóa” không phải
là rao giảng một Phúc Âm mới v́ “Đức Giêsu Kitô
vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như
vậy măi đến muôn đời” (Dt 13,8), nhưng là
“mới về ḷng nhiệt thành, mới trong phương
pháp, và mới trong cách diễn tả”.[6] Mới về
ḷng nhiệt thành là làm mới lại tương quan
giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô,
để mối tương quan ấy hướng
dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương
pháp là biết vận dụng những phương pháp thích
hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh
chóng của thời đại về nhiều mặt, văn
hóa, xă hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách
diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử
dụng những cách diễn tả phù hợp, để
con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội
được sứ điệp Phúc Âm.
Công cuộc Tân Phúc-âm-hóa đ̣i duyệt lại
toàn bộ các sinh hoạt mục vụ ở tất cả
mọi b́nh diện, nghĩa là phải thực hiện cuộc
hoán cải từ trong tâm thức đến định
hướng và phương pháp khi làm mục vụ. Từ
kinh nghiệm của các nước đă có nhiều Kitô hữu
bỏ đạo, nếu chúng ta không nhanh chóng thực hiện
cuộc hoán cải mục vụ này, th́ trong tương lai
không xa, Hội Thánh tại Việt Nam cũng có thể
rơi vào t́nh trạng băng giá của mùa đông đức
tin như một số nơi trên thế giới.
Chương tŕnh
canh tân đời sống đức tin cần
được lồng vào trong tổng thể của
kế hoạch mục vụ mà Hội Đồng Giám
Mục tŕnh bày trong Thư Chung Hậu Đại Hội Dân
Chúa 2010: “Cùng
nhau bồi đắp nền văn minh t́nh thương và
sự sống”. Thư Chung
ấy là chương tŕnh hành động của Hội
Thánh tại Việt Nam trong nhiều năm. Dựa trên
định hướng căn bản này, chúng tôi mời
gọi anh chị em hăy cùng với chúng tôi thực hiện
kế hoạch mục vụ kéo dài 3 năm (2014-2016):
– Năm 2014: Phúc-âm-hóa đời sống gia
đ́nh;
– Năm 2015: Phúc-âm-hóa đời sống giáo xứ
và các cộng đoàn;
– Năm 2016: Phúc-âm-hóa đời sống xă hội.
5. Trong năm 2014 sắp tới, chúng ta
hăy cùng nhau phúc-âm-hóa đời sống gia đ́nh và thúc
đẩy gia đ́nh tham gia tích cực vào sứ vụ loan
báo Tin Mừng. Hội Thánh
được gọi là gia đ́nh của Thiên Chúa và
mỗi gia đ́nh Kitô hữu được gọi là
Hội Thánh tại gia. Việc canh tân Hội Thánh phải
được bắt đầu từ mỗi gia đ́nh,
do đó, Hội Thánh đặc biệt quan tâm đến
các gia đ́nh. Cách cụ thể, mới đây Đức
Thánh Cha Phanxicô đă loan báo triệu tập Thượng
Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại lệ vào tháng 10
năm 2014 về “Những thách đố mục vụ
đối với gia đ́nh trong bối cảnh
Phúc-âm-hoá”. Thư
Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 cũng
nhấn mạnh: “Trước cuộc khủng hoảng gia
đ́nh hiện nay, Hội Thánh nhận thấy cần
phải tăng cường và canh tân mục vụ gia
đ́nh, phải xem mục vụ gia đ́nh là
hoạtđộng quan trọng, nối kết những
kế hoạch và chương tŕnh mục vụ của giáo
xứ cũng như giáo phận”.[7]
6. Để
thực hiện những mục tiêu trên, xin anh chị em hăy
xây dựng gia đ́nh ḿnh thành một cộng đoàn
cầu nguyện, sống t́nh yêu hợp nhất thủy
chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin
Mừng.
– Gia đ́nh
là cộng đoàn cầu nguyện, thờ
phượng Thiên Chúa, đền thờ tại gia.
Hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa trái vừa là
đ̣i hỏi của sự hiệp thông bắt nguồn
từ bí tích Rửa Tội và Hôn Phối. Chúa Giêsu hiện
diện trong gia đ́nh khi vợ chồng, cha mẹ, con cái
cùng cầu nguyện, và khi đó, chính cuộc sống gia
đ́nh trở thành lời kinh sống động. Hoàn
cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở
ngại cho việc gia đ́nh cùng
sum họp cầu nguyện. Tuy nhiên đây là đ̣i hỏi
quan trọng trong đời sống gia đ́nh công giáo. V́
thế, cùng với việc siêng năng tham dự Thánh
Lễ và lănh nhận các bí tích, chúng tôi tha thiết xin anh
chị em duy tŕ giờ kinh chung trong gia đ́nh, và cố
gắng đưa Lời Chúa vào giờ kinh này.
– Gia đ́nh là cộng đoàn yêu
thương bằng t́nh yêu hợp nhất thủy
chung, xuất phát từ Thiên Chúa T́nh Yêu. Mối tương
quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng
như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu
chỉ sống động của T́nh Yêu Thiên Chúa. V́
thế, các gia đ́nh công giáo phải loại bỏ mọi
thứ bạo hành, “hăy có ḷng thương cảm, nhân
hậu, khiêm nhu, hiền ḥa, nhẫn nại, chịu
đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
– Gia đ́nh
là cộng đoàn phục vụ sự sống,
được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng
Sống. Vợ chồng Kitô hữu yêu thương nhau
bằng một t́nh yêu mở ra với sự sống, tôn
trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai, cộng
tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách
nhiệm, giáo dục con cái nên người tốt và nên con
cái Chúa. Gia đ́nh phải là ngôi trường đầu
tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là
thành tŕ bảo vệ sự sống thể lư cũng
như tinh thần của con cái trước sự tấn
công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. V́
thế, các bậc cha mẹ phải ư thức trách nhiệm
của ḿnh là những nhà giáo dục đầu tiên và không
thể thay thế, bằng chính gương sáng của ḿnh.
–
Gia đ́nh là cộng đoàn tham gia vào sứ vụ
phúc-âm-hóa, bằng lời cầu nguyện cũng
như bằng hành động cụ thể. Chính
đời sống yêu thương hiệp nhất trong gia
đ́nh công giáo, ngay giữa những khó khăn và thử
thách của cuộc đời, tự nó đă là lời
chứng âm thầm nhưng có sức thuyết phục
của Tin Mừng. Ngoài ra, theo truyền thống tốt
đẹp, gia đ́nh công giáo c̣n là nơi vun trồng ơn
gọi linh mục và tu sĩ. Đồng thời, khi có
thể, xin anh chị em hăy mạnh dạn chia sẻ và
giới thiệu Đức Kitô cho người khác.
7. Để
đồng hành với các gia đ́nh trong sứ mệnh cao
cả nói trên, chúng tôi đề nghị một số
việc mục vụ sau:
Việc chuẩn bị cho giới trẻ bước
vào đời sống hôn nhân và gia đ́nh là đ̣i hỏi khẩn
thiết hơn bao giờ hết. Các bạn trẻ cần
ư thức và sống đời hôn nhân như một ơn
gọi và sứ mệnh cao quư, được chọn
lựa với ư thức, tự do và trách nhiệm. Đôi
bạn Kitô hữu c̣n được mời gọi
sống bí tích Hôn Phối như dấu chỉ hữu h́nh
và hữu hiệu của t́nh yêu Đức Kitô dành cho
Hội Thánh, một t́nh yêu phong nhiêu, duy nhất và bất
khả phân ly. Để được như thế,
cần có sự chuẩn bị xa, chuẩn bị gần,
và chuẩn bị trực tiếp cho các bạn trẻ
bước vào đời sống hôn nhân.
Trong bối
cảnh có nhiều biến động về văn hóa-xă
hội ngày nay, chúng tôi thiết nghĩ cần phải
nhắc lại chân lư này: định chế gia đ́nh
đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một
người nam và một người nữ.
Định chế này dựa trên bản tính con
người, do chính Thiên Chúa thiết lập, hướng
đến thiện ích của chính gia đ́nh và xă hội;
v́ thế, mọi cá nhân và tập thể xă hội cần
nh́n nhận và tôn trọng định chế này.
Đồng
hành với các gia đ́nh trẻ ngày nay là yêu cầu mục vụ quan
trọng, để giúp họ sống t́nh yêu vợ
chồng với tinh thần trách nhiệm, phục vụ
sự sống, biết ḥa hợp t́nh thương trong tổ
ấm gia đ́nh với trách nhiệm xây dựng Hội
Thánh, xă hội và đất nước.
Với những anh chị em đang gặp khó khăn
v́ hôn nhân đổ vỡ và gia đ́nh ly tán,
một đàng chúng ta vẫn phải nêu cao lư tưởng
đời sống hôn nhân công giáo, đàng khác phải
đồng hành và nâng đỡ họ, thay v́ bày tỏ thái
độ lên án và loại trừ.
Hiện nay,
có nhiều nhóm, hiệp hội, phong trào tu đức
và tông đồ đang dấn thân chăm lo mục
vụ gia đ́nh theo những cách thế và mức
độ khác nhau. Những phong trào này cần
được các mục tử đồng hành và hướng
dẫn, nâng đỡ và khích lệ, để họ góp
phần cách cụ thể và hài ḥa với chương tŕnh
mục vụ chung trong mỗi giáo xứ, giáo phận.
Các giáo phận nên quan tâm đến việc đào
tạo giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân chuyên trách mục vụ
gia đ́nh. Những người này sẽ cộng tác
với các giám mục giáo phận trong việc xây dựng và
triển khai những chương tŕnh mục vụ gia
đ́nh trong giáo phận cũng như giáo xứ. Chúng tôi
cũng muốn gửi lời kêu gọi đặc
biệt đến anh chị em văn nghệ sĩ và
giới truyền thông công giáo. Ước mong anh chị em
vận dụng tài năng Thiên Chúa ban, để tôn vinh
vẻ đẹp đích thực của t́nh yêu hôn nhân và gia
đ́nh. Các linh mục tương lai cũng cần
được chuẩn bị chu đáo hơn về
mục vụ gia đ́nh, để có thể đồng
hành với các gia đ́nh cách hữu hiệu.
Anh chị em thân mến,
Trên đây, chúng tôi đă chia sẻ với anh
chị em những thao thức mục vụ cũng như
những đề nghị cụ thể, nhằm góp phần
vào nỗ lực “Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức
tin Kitô giáo”. Ước mong những đề nghị này
được anh chị em - cách riêng, các linh mục là những
cộng tác viên gần gũi của hàng giám mục - đón
nhận để cầu nguyện, suy nghĩ, khai triển
và thực hiện ở nhiều cấp độ: gia
đ́nh, giáo xứ, giáo phận. Hướng về Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam là những tấm gương
sáng ngời trong sứ mệnh phúc-âm-hóa, chúng ta hăy thân
thưa với các ngài:
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
là con thảo của Cha trên trời, là chứng nhân anh
dũng của Đức Kitô, là thành phần trung kiên của
Hội Thánh, xin giúp chúng con biết trân trọng di sản
đức tin mà các ngài đă truyền lại cho chúng con bằng
máu và nước mắt. Xin cho chúng con mạnh dạn sống
đức tin trong gia đ́nh cũng như xă hội, theo tấm
gương xán lạn của Thánh Gia Thất, để chiếu
tỏa ánh sáng đức tin khắp nơi nơi; nhờ
đó chúng con có thể tích cực góp phần thi hành sứ
mệnh truyền giáo, đem lại hoa quả dồi dào
trên quê hương Việt Nam thân yêu.
Làm tại Trung tâm Mục vụ
Sài G̣n, ngày 10-10-2013
+ Cosma Hoàng
Văn Đạt + Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn
Giám mục Bắc
Ninh Tổng giám mục Hà Nội
Tổng
thư kư HĐGM.VN Chủ
tịch HĐGM.VN
(đă kư)
(đă kư)
Tháng Mười 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô
tuyên bố sẽ triệu tập một Thượng Hội
Đồng Đặc Biệt về Gia Đ́nh trong các ngày
5-18 tháng Mười, năm 2014 với chủ đề
“Các Thách Đố Mục Vụ Của Gia Đ́nh Trong Bối
Cảnh Tân Phúc Âm Hóa”.
Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, một
buổi họp báo đă được tổ chức tại
Pḥng Báo Chí của Ṭa Thánh. Trong buổi họp báo này, Đức
TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư Kư của Thượng Hội
Đồng, cho hay: để chuẩn bị cho Thượng
Hội Đồng vào năm tới, cuộc họp lần
thứ năm của Hội Đồng Thượng Hội
Đồng Thường Lệ đă diễn ra trong các ngày
7-8 tháng Mười vừa qua để đưa ra Tài Liệu
Chuẩn Bị. Tài liệu này bao gồm một tŕnh bày tổng
quát về chủ đề, các trích dẫn thánh kinh và huấn
quyền về chủ đề, và một bản câu hỏi
về các thách đố chính của gia đ́nh hiện
đại. Sau đây là nguyên văn Tài Liệu Chuẩn Bị.
I.
Thượng Hội Đồng: Gia đ́nh và việc phúc
âm hóa
Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi
tạo vật, được Chúa trực tiếp ủy
thác cho các môn đệ của Người, vẫn tiếp
diễn trong Giáo Hội trong suốt gịng lịch sử. Cuộc
khủng hoảng xă hội và tâm linh, hết sức hiển
nhiên trong thế giới ngày nay, đang trở thành một
thách đố mục vụ trong sứ mệnh phúc âm hóa của
Giáo Hội liên quan tới gia đ́nh, vốn là viên đá
sinh tử xây dựng nên xă hội và cộng đồng
Giáo Hội. Trước đây, chưa bao giờ việc
công bố Tin Mừng về gia đ́nh trong bối cảnh
này đă khẩn trương và cần thiết hơn. Sự
quan trọng của chủ đề này được phản
ảnh trong sự kiện Đức Thánh Cha đă quyết
định triệu tập một Thượng Hội
Đồng Giám Mục; Thượng Hội Đồng này
sẽ là một hành tŕnh gồm hai giai đoạn: đầu
tiên, một Phiên Khoáng Đại Đặc Biệt trong
năm 2014, nhằm xác định “status quaestionis” (t́nh huống
của vấn đề) và thu lượm kinh nghiệm và
đề nghị của các giám mục trong việc công bố
và sống thực Tin Mừng Gia Đ́nh một cách khả
tín; thứ hai, một Phiên Khoáng Đại Thường Lệ
trong năm 2015 nhằm đưa ra các chỉ dẫn có thể
áp dụng được trong lănh vực chăm sóc mục
vụ cho các con người và gia đ́nh.
Các lo âu chưa từng nghe thấy cho tới những
năm gần đây nay đă xuất hiện do hậu quả
của nhiều t́nh huống khác nhau, từ tập tục
sống chung khá phổ biến mà không dẫn tới hôn
nhân, đôi khi c̣n loại bỏ cả ư niệm hôn nhân nữa,
cho tới các cuộc kết hợp đồng tính giữa
những người thường được phép nhận
con nuôi. Các t́nh huống mới đ̣i Giáo Hội phải chú
tâm và chăm sóc mục vụ là những t́nh huống này:
các cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo; gia
đ́nh có cha hoặc mẹ đơn lẻ; đa thê; hôn
nhân với vấn đề hồi môn sau đó, một hồi
môn đôi khi bị hiểu như giá mua người đàn
bà; hệ thống đẳng cấp (caste); văn hóa phi
cam kết và giả thiết rằng dây hôn phối chỉ
có tính tạm thời; các h́nh thức duy nữ phản Giáo
Hội; di dân và việc tái lên công thức đối với
chính ư niệm gia đ́nh; chủ nghĩa đa nguyên duy
tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh
hưởng truyền thông đối với nền văn
hóa b́nh dân trong cái hiểu về hôn nhân và đời sống
gia đ́nh; các khuynh hướng tiềm ẩn về tư
duy trong các đề xuất luật pháp nhằm hạ giá
ư niệm vĩnh viễn và ḷng trung thành của giao ước
hôn nhân; gia tăng tập tục làm mẹ mướn
(surrogate motherhood, cho thuê dạ con); và các giải thích mới
lạ về điều được coi là nhân quyền.
Bên trong Giáo Hội, có nhiều dấu hiệu cho thấy
đức tin vào tính bí tích của hôn nhân và sức mạnh
hàn gắn của Bí Tích Sám Hối càng ngày càng yếu đi
hoặc hoàn toàn bị loại bỏ.
Thành thử, ta hiểu được tính khẩn
trương của việc mời gọi hàng giám mục
thế giới họp “cum et sub Petro” (cùng với và dưới
quyền Phêrô) để bàn thảo các thách đố này.
Thí dụ, chỉ cần nghĩ tới sự kiện: do
t́nh huống hiện nay, rất nhiều trẻ em và người
trẻ sẽ không bao giờ được thấy cha mẹ
chúng lănh nhận các bí tích, là đủ để ta hiểu
các thách đố đối với việc phúc âm hóa do t́nh
huống hiện nay tạo ra khẩn trương như thế
nào; ta có thể nhận thấy những thách đố này ở
hầu hết mọi nơi trên thế giới. Song hành với
thực trạng này, ta thấy đại đa số hiện
nay chấp nhận giáo huấn ḷng thương xót Chúa và sự
quan tâm đối với người đau khổ,
đang đứng bền lề xă hội, cả theo
nghĩa địa dư lẫn nghĩa hiện sinh. Thành
thử, đại đa số đang mong chờ các quyết
định mục vụ sẽ được đưa
ra liên quan tới gia đ́nh. Ngoài tính cần thiết và khẩn
trương ra, sự suy tư về các vấn đề
này của Thượng Hội Đồng Giám Mục c̣n
được coi như một bổn phận đức
bác ái đối với những ai được trao phó
cho các giám mục coi sóc và đối với toàn thể gia
đ́nh nhân loại.
II. Giáo Hội và Tin Mừng Gia Đ́nh
Tin vui t́nh thương Thiên Chúa phải
được công bố cho mọi người đang
đích thân sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng
là lứa đôi và hiệp thông dẫn tới hồng ân con
cái, tức cộng đồng gia đ́nh. Các giáo huấn
đức tin về gia đ́nh phải được tŕnh
bày theo cách truyền thông và hữu hiệu, để chúng tới
được các tâm hồn và biến đổi chúng theo
thánh ư Thiên Chúa, một thánh ư vốn được tỏ lộ
nơi Chúa Giêsu Kitô.
Về các nguồn Thánh Kinh liên quan tới hôn
nhân và gia đ́nh, tài liệu này chỉ trích dẫn các tham
chiếu chủ yếu. Điều này cũng đúng đối
với việc trích dẫn Huấn Quyền: chỉ trích dẫn
các điều có tính phổ quát, trong đó có thêm một số
bản văn của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia
Đ́nh. Các giám mục tham dự Thượng Hội Đồng
được tự do trích dẫn các tài liệu từ
các hội đồng giám mục của các ngài.
Ở mọi thời và trong nhiều nền
văn hóa khác nhau, không thiếu giáo huấn rơ ràng của các
mục tử cũng như các chứng từ cụ thể
của tín hữu nam nữ, những người bất chấp
các hoàn cảnh khác nhau vẫn luôn sống Tin Mừng Gia
Đ́nh như một hồng phúc khôn sánh đối với
đời họ và con cái họ. Cam kết của Thượng
Hội Đồng Đặc Biệt sắp tới
được gợi hứng và nâng đỡ bởi ư muốn
thông truyền sứ điệp này một cách mạnh mẽ
hơn, hy vọng rằng “kho tàng mạc khải, vốn
được ủy thác cho Giáo Hội, mỗi ngày mỗi
tràn ngập tâm hồn từng người hơn” (Dei
Verbum, số 26).
Kế
hoạch Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng
Cứu Chuộc
Vẻ đẹp của sứ điệp
Thánh Kinh về gia đ́nh bắt nguồn từ việc dựng
nên người đàn ông và người đàn bà, cả hai
giống h́nh ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1,24-31;
2,4-25). Được liên kết với nhau bằng sợi
dây bí tích bất khả tiêu, những người kết
hôn cảm nghiệm được cái đẹp của
t́nh yêu, t́nh cha, t́nh mẹ, và phẩm giá tối cao của việc
nhờ cách này, được tham dự vào công tŕnh sáng tạo
của Thiên Chúa.
Trong hồng ân hoa trái phát sinh từ cuộc kết
hợp của ḿnh, họ đảm nhận trách nhiệm
dưỡng nuôi và giáo dục những con người khác
cho tương lai nhân loại. Nhờ việc sinh sản,
người đàn ông và người đàn bà chu toàn trong
đức tin ơn gọi trở thành người cộng
tác của Thiên Chúa trong việc bảo vệ công tŕnh sáng tạo
và phát triển gia đ́nh nhân loại.
Chân Phúc Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II nhận định về khía cạnh này
trong Familiaris
consortio như sau:
“Thiên Chúa tạo dựng con người giống h́nh
ảnh và họa ảnh Người (xem St 1,26-27), khi
mời gọi họ bước vào hiện hữu qua
ngả yêu thương, Người cũng đồng
thời kêu gọi họ hướng về yêu
thương. Thiên Chúa là yêu thương (xem 1Ga 4,8) và chính
nơi Người, Người vẫn sống mầu
nhiệm hiệp thông yêu thương đầy tính bản
vị. Khi tạo nên nhân loại giống h́nh ảnh
Người và liên tục duy tŕ họ hiện hữu, Thiên
Chúa đă ghi khắc nơi nhân tính người nam và
người nữ ơn gọi, và
do đó cả khả năng và trách nhiệm, yêu
thương và hiệp thông (Gaudium
et spes, số 12). Do
đó, yêu thương là ơn gọi nền tảng và
bẩm sinh của mọi người” (Tông
huấn Gia đ́nh, số 11).
Kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, một
kế hoạch bị tội nguyên tổ gây trở ngại
(xem St 3,1-24), đă tự vén mở qua ḍng lịch sử
trong các biến cố của dân riêng cho tới tận thời
viên măn, lúc mà nhờ Con Thiên Chúa nhập thể, không những
ư muốn cứu vớt của Thiên Chúa mà cả ơn cứu
chuộc đem lại ơn thánh theo thánh ư ấy đều
được xác nhận.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời thành xác phàm (xem Ga 1,14)
trong cung ḷng Mẹ Đồng Trinh, đă sống và lớn
lên trong gia đ́nh Nadarét và tham dự tiệc cưới tại
Cana, nơi Người làm tăng tầm quan trọng của
lễ hội bằng “dấu lạ” đầu tiên (xem Ga
2,1-11). Trong hân hoan, Người hoan nghinh việc tiếp
rước Người trong gia đ́nh các môn đệ
Người (xem Mc 1,29-31; 2,13-17) và an ủi gia đ́nh bằng
hữu của Người đang gặp tang chế tại
Bêtania (xem Mc 10,38-42; Ga 11,1-44). Chúa Giêsu Kitô phục hồi vẻ
đẹp của hôn nhân, v́ một lần nữa, Người
đề xuất kế hoạch của Thiên Chúa từng bị
bỏ ngang v́ sự cứng ḷng của trái tim con người,
ngay bên trong truyền thống dân Israel (xem Mt 5,31-32; 19,3-12; Mc
10,1-12; Lc 16,18). Trở về thời nguyên thủy, Chúa Giêsu
dạy ta sự đơn nhất và ḷng trung thành của vợ
chồng, bác bỏ tập quán đuổi vợ và ngoại
t́nh.
Chính qua vẻ đẹp phi thường của
t́nh yêu nhân bản, vốn được đề cao bằng
âm sắc linh hứng trong Diễm Ca, và dây hôn phối do các
tiên tri như Hôsê (xem Hs 1,2; 3,3) và Malaki (xem Ml 2,13-16) kêu gọi
và bảo vệ, Chúa Giêsu đă xác quyết phẩm giá nguyên
thủy của t́nh yêu hôn nhân nơi người đàn ông
và người đàn bà.
Giáo huấn
của Giáo Hội về gia đ́nh
Ngay trong cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi,
gia đ́nh đă xuất hiện như một “Giáo Hội
tại gia” rồi (xem Sách Giáo Lư Của Giáo Hội Công Giáo,
số 1655): Trong các điều gọi là “qui luật về
gia đ́nh” (family canons) của các thư Tân Ước, gia
đ́nh trong thế giới cổ thời được
nhận diện như là nơi diễn ra sự liên đới
sâu sắc giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và
con cái, và giữa người giầu và người nghèo
(xem Ep 5,21-6:9; Cl 3,18-4,1; 1Tm 2,8-15; Tt 2,1-10; 1Pr 2,13-3,7; xem thêm
Thư Philêmôn). Cách riêng, thư Êphêsô nh́n nhận t́nh yêu phu
thê giữa một người nam và một người nữ
là “một mầu nhiệm lớn”, v́ đă biến t́nh yêu
của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người thành hiện
thực (xem Ep 5,31-32).
Trong nhiều
thế kỷ, nhất là từ thời cận đại
cho tới nay, Giáo Hội đă đưa ra một giáo
huấn liên tục và tiệm tiến về gia đ́nh và
hôn nhân là định chế vốn làm nền cho nó. Một
trong các phát biểu đáng lưu ư nhất đă
được Công Đồng Vatican II đề xuất
trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium
et spes; hiến chế
này, khi bàn tới một số vấn đề khẩn
trương, đă dành trọn một chương
để cổ vũ phẩm giá hôn nhân và gia đ́nh,
như được thấy trong đoạn mô tả các
giá trị của chúng đối với việc tạo
lập xă hội: “gia đ́nh, nơi gặp gỡ của
nhiều thế hệ giúp nhau đạt được
sự khôn ngoan sâu rộng hơn và hoà hợp
được các quyền lợi bản thân với các đ̣i
hỏi khác của đời sống xă hội, đă
tạo nên nền tảng cho xă hội” (GS, số 52).
Điều đặc biệt đáng lưu
ư là lời kêu gọi của nó đối với một nền
linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm sinh hoạt đức
tin của vợ chồng: “Được dựng nên giống
h́nh ảnh Thiên Chúa hằng sống và thừa hưởng
phẩm giá nhân vị chân chính, vợ chồng hăy kết hợp
với nhau trong cùng một t́nh âu yếm, trong cùng một
tư duy và trong cùng một sự thánh thiện hỗ
tương, ngơ hầu, theo gương Chúa Kitô, Đấng
vốn là nguyên lư của sự sống, vợ chồng có
thể nhờ các hân hoan và hy sinh trong ơn gọi của
ḿnh, nhờ ḷng trung tín trong t́nh yêu của ḿnh, mà trở nên
các chứng nhân của mầu nhiệm yêu thương mà
Chúa đă tỏ lộ cho thế giới qua cái chết và sự
sống lại của Người” (GS, số 52).
Sau Công Đồng Vatican II, các vị kế
nhiệm Thánh Phêrô cũng đă dùng huấn quyền của
các ngài mà phong phú hóa giáo huấn về hôn nhân và gia đ́nh,
nhất là Đức GH Phaolô VI với thông điệp Humanae vitae, là thông điệp đưa ra các giáo
huấn chuyên biệt cả về nguyên tắc lẫn
hướng dẫn. Sau đó, trong Tông Huấn Familiaris consortio, Đức GH Gioan Phaolô II muốn nhấn
mạnh tới việc đề xuất kế hoạch
Thiên Chúa nhân nói tới các sự thật về nguồn
gốc t́nh yêu vợ chồng và nguồn gốc gia đ́nh:
“ ‘Nơi’ duy nhất làm cho việc tự hiến theo
nghĩa thật sự trọn vẹn này trở thành
khả hữu chính là hôn nhân, tức giao ước t́nh yêu
hay sự lựa chọn có ư thức và tự do qua đó,
người đàn ông và người đàn bà chấp
nhận cộng đồng sự sống và t́nh yêu
đầy thân ái, vốn được chính Thiên Chúa mong
muốn” (xem GS, số 48), một cộng đồng
chỉ biểu lộ được ư nghĩa chân thực
của nó dưới ánh sáng này mà thôi. Định chế
hôn nhân không phải là một can thiệp không nên có của
xă hội hay của một thẩm quyền nào đó,
cũng không phải là việc áp đặt một h́nh
thức ngoại tại nào. Đúng hơn, nó là một
đ̣i hỏi nội tại của giao ước yêu
thương phu phụ, một giao ước
được công khai xác nhận là duy nhất và
độc chiếm, để hai bên sống tuyệt đối
trung thành với nhau theo kế hoạch của Thiên Chúa Hóa
Công. Tự do bản vị, thay v́ bị ḷng trung thành này
giới hạn, thực ra đă được che chở
khỏi mọi h́nh thức duy chủ quan hay duy tương
đối, để trở thành người tham dự
vào Sự Khôn Ngoan sáng thế” (Tông huấn Gia đ́nh 11).
Sách Giáo Lư
Của Giáo Hội Công Giáo đă gom lại một nơi các
khía cạnh căn bản của giáo huấn này: “Giao
ước hôn nhân, qua đó, một người đàn ông
và một người đàn bà thành lập với nhau
một cộng đồng thân mật sống và yêu
thương nhau, đă được Đấng Tạo
Hóa thiết lập và ban cho những luật lệ riêng
biệt. Do chính bản chất của nó, giao ước này
được sắp đặt cho thiện ích của
vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo
dục con cái. Chúa Kitô đă nâng hôn nhân giữa những
người đă rửa tội lên hàng một bí tích” [xem
Công Đồng Vatican II, Gaudium et spes, số 48; Bộ
Giáo Luật, số 1055,1]” (Sách GLCGHCG, 1660).
Học thuyết tŕnh bày trong Sách Giáo Lư này xem
xét cả các nguyên tắc thần học lẫn các tác phong
luân lư, được khai triển dưới hai đầu
đề riêng biệt: Bí Tích Hôn Nhân (các số 1601-1658) và
Điều Răn Thứ Sáu (các số 2331-2391). Đọc
cẩn thận các phần này của Sách Giáo Lư, ta sẽ có
được một cách hiểu cập nhật về học
thuyết của đức tin, để hỗ trợ
hành động của Giáo Hội trước các thách đố
hiện nay. Nguyên tắc mục vụ của Giáo Hội
được gợi hứng từ sự thật về
hôn nhân, một sự thật được xem sét dưới
ánh sáng kế sách Thiên Chúa, Đấng đă tạo nên
người đàn ông và người đàn bà, và là Đấng,
vào thời viên măn, đă mạc khải nơi Chúa Giêsu tính
tṛn đầy của t́nh yêu vợ chồng, lúc được
nâng lên hàng bí tích. Đặt cơ cở trên sự ưng
thuận, hôn nhân Kitô Giáo cũng được ban cho nhiều
hiệu quả như thiện ích và bổn phận vợ
chồng. Nhưng, hôn nhân không được miễn nhiễm
khỏi hậu quả tội lỗi (Xem St 3,1-24), một
việc có thể gây ra những vết thương sâu xa,
thậm chí c̣n hạ thấp cả phẩm giá của bí
tích nữa.
Thông điệp mới đây của Đức
Giáo Hoàng Phanxicô, tựa là Lumen Fidei (ánh sáng đức
tin - LF) có đề cập tới gia đ́nh trong bối cảnh
một suy tư về việc đức tin cho ta biết
“các sợi dây nối kết người ta lại với
nhau bền vững ra sao khi Thiên Chúa hiện diện ở
giữa họ” (LF, số 50). “Khung cảnh đầu tiên
trong đó đức tin soi sáng cho kinh thành con người
là gia đ́nh. Tôi nghĩ trước hết và đầu hết
tới sự kết hợp bền vững giữa một
người đàn ông và một người đàn bà trong
hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh từ t́nh yêu của
họ, như là dấu chỉ và là sự hiện diện
của chính t́nh yêu Thiên Chúa, và phát sinh từ việc nh́n nhận
và chấp nhận sự tốt lành của dị biệt
hóa giới tính, nhờ đó, các người phối ngẫu
có thể trở nên một thân xác (xem St 2,24), và có khả
năng sinh ra một sự sống mới, vốn là điều
nói lên sự tốt lành, khôn ngoan và kế hoạch yêu
thương của Đấng Hóa Công. Đặt cơ sở
trên t́nh yêu này, người đàn ông và người đàn
bà có thể thề hứa yêu thương nhau trong một cử
chỉ vận dụng được trọn cả đời
họ và phản ảnh được nhiều đặc
điểm của đức tin. Thề hứa yêu
thương nhau măi măi chỉ có thể có khi ta nhận thức
được một kế hoạch lớn hơn chính
các dự án của ta, một kế hoạch nâng đỡ
ta và giúp ta khả năng trao phó trọn tương lai ta
cho người ta yêu” (LF, số 52). “Đức tin không phải
là nơi trú ẩn của những người nhát gan,
nhưng là một điều thăng tiến đời
ta. Nó làm ta ư thức được tiếng gọi kỳ
diệu, tức lời mời gọi của t́nh yêu. Nó bảo
đảm với ta rằng t́nh yêu này đáng tin tưởng
và đáng ôm lấy, v́ nó đặt căn bản trên ḷng
trung thành của Thiên Chúa, một ḷng trung thành mạnh
hơn sự yếu đuối của ta” (LF, số
53).
“Theo ư định của Thiên
Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn
rộng lớn hơn, tức là gia đ́nh, v́ chính
định chế hôn nhân và t́nh yêu vợ chồng
đều quy hướng về việc truyền sinh và
giáo dục con cái, làm nên triều thiên cho định chế
và t́nh yêu ấy.
Trong
thực tế sâu xa nhất của nó, t́nh yêu vốn
cốt yếu là ơn huệ. Và t́nh yêu vợ chồng, khi
đưa đôi bạn đến chỗ “biết” nhau làm
cho họ trở thành “một xác thịt”, nó không chấm
dứt nơi hai người nhưng nó làm cho họ có
khả năng thực hiện được việc trao
hiến lớn lao nhất, nhờ đó họ trở nên
những người cộng tác với Thiên Chúa để
thông ban sự sống cho một nhân vị khác. V́ thế
khi hai vợ chồng trao hiến cho nhau th́ cũng trao ban
một hữu thể thực hữu vượt khỏi
họ, tức là đứa con. Nó là dấu chỉ
thường xuyên của sự hiệp nhất vợ
chồng và là tổng hợp sống động, không
thể phân chia của tư cách làm cha làm mẹ của
họ.” (Tông Huấn Gia Đ́nh,
số 14)
Người xưa nói: “Uốn cây từ
thuở c̣n non, dạy con từ thuở con c̣n trong nôi.” Ngày
nay người ta c̣n nhấn mạnh: “Dạy con từ
thuở con c̣n trong thai”. Sự giáo dục này
được gọi là thai giáo.
Ngay khi c̣n trong bào thai, em
bé đă có thể tiếp nhận sự giáo dục của
cha mẹ. Cuộc sống gia đ́nh, sức khoẻ và tâm
trạng người mẹ lúc ấy có ảnh
hưởng rất lớn trên em bé, cả về sự
phát triển thể chất và tâm thần đang lặng
lẽ h́nh thành.
Các tâm t́nh và thái độ ứng xử
của cha mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính
đứa con sắp chào đời. Do đó những
bậc cha mẹ thương con sẽ hết sức
lưu ư để sống thật lành mạnh về luân lư
và tâm linh. Trong thời gian cưu mang, người mẹ
cần tĩnh dưỡng, suy nghĩ về ơn gọi
làm mẹ; cần có thái độ b́nh tĩnh, vui thích
đợi chờ. Nên chiêm ngắm những h́nh ảnh
tươi đẹp thánh thiện, chọn nghe nhạc êm
dịu trong sáng, nghe và hát thánh ca, cầu nguyện trong tâm
t́nh tin cậy phó thác. Dù con c̣n trong dạ, người
mẹ cũng có thể vuốt ve và nói với con những
lời ˆâu yếm dịu dàng. Người cha cần
biết tạo điều kiện bên ngoài cho êm ấm
để người mẹ luôn được an vui
hạnh phúc.
Đừng đặt tên cho con cái cách tuỳ
tiện. Hăy làm tuần chín ngày kính Đức Chúa Thánh
Thần để biết Thiên Chúa muốn ǵ trên cháu bé và
xin Ngài soi sáng để chọn cho cháu một tên gọi gói
ghém được ước mơ của cha mẹ và
cả của Thiên Chúa trên cuộc đời cháu. Hăy suy
nghĩ để sớm chọn người đỡ
đầu rửa tội cho cháu. Tốt nhất là chọn
trong ṿng thân hữu những gia đ́nh cùng một chí
hướng giáo dục.
Thời gian mang thai là thời gian khẳng
định hướng đi căn bản cho cuộc
đời cháu bé. Với anh chị em là những Kitô
hữu, đó phải là hướng đi căn bản
của người con cái Chúa. Chương tŕnh của Thiên
Chúa khi tạo dựng nên chúng ta chính là để chúng ta
được hiệp nhất yêu thương với Ngài
trong hạnh phúc đời đời. Mọi sự Thiên
Chúa ban cho ta ở đời này đều nhằm giúp ta
đạt tới mục tiêu cuối cùng ấy. Do đó,
trong mọi sự, ta luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa và cho
sự hiệp nhất với Ngài. Hễ điều ǵ c̣n
giúp ta gần gũi Thiên Chúa th́ ta đón nhận, một khi
nó bắt đầu ngăn cản ta gần gũi Thiên
Chúa, ta sẽ loại trừ ngay.
Cha mẹ thế nào, con cái thế ấy. Anh
chị em muốn đào tạo con cái ḿnh nên người
thế nào, th́ cứ cố gắng sống như thế
ấy. Gương sáng của anh chị em sẽ khuôn
đúc nên con cái của anh chị em.
Sau cùng, hăy đến với Đức
Mẹ. Khi bà Êlizabét đang mang thai th́ Mẹ Maria đến
thăm. Đứa bé trong ḷng bà đă nhảy mừng. Khi
nó sinh ra, láng giềng kinh ngạc bảo nhau: “Con trẻ này
rồi sẽ ra thế nào, v́ có tay Chúa ở với nó” (Lc
1,66). Thánh Gioan Bosco nói: “Muốn cho trẻ nên người,
hăy đưa chúng đến với Đức Mẹ”. Hăy
đưa con cái đến với Mẹ Maria ngay khi chúng
c̣n là bào thai trong ḷng mẹ.
“Khi trở nên cha mẹ, đôi
bạn cũng lănh nhận nơi Thiên Chúa một quà
tặng, đó là một trách nhiệm mới. Cha mẹ
được mời gọi để biến t́nh
thương con cái thành dấu chỉ hữu h́nh cho chúng
nhận ra được chính t́nh yêu của Thiên Chúa, “là
nguồn gốc mọi t́nh phụ tử trên trời
dưới đất” (Ep 3,15) (Tông Huấn Gia Đ́nh,
số 14).
Về việc
giáo dục các cháu từ mới sinh đến 3 tuổi, ta
cần lưu ư những điểm sau đây:
1. Việc giáo dục của giai đoạn
này tập trung nơi người mẹ: Đứa bé
chưa phân biệt nó với ngoại vật, chưa phân
biệt nó với mẹ. Mẹ với nó là một. Mẹ
là sự an toàn, là sự dễ chịu cho nó. Thái độ
tôn giáo của người mẹ trong giai đoạn này
ảnh hưởng rất sâu đậm trên đức tin
sau này của đứa bé, chuẩn bị hoặc cản
trở đức tin của nó khi lớn. Vai tṛ của
người cha lúc này là tạo sự thoải mái yên ấm
cho người mẹ. Phải đợi khi đứa bé
được hai tuổi, người cha mới có
thể ảnh hưởng trực tiếp.
2. Vun trồng ḷng tin cậy đầu tiên:
Người mẹ cần chăm sóc con với niềm vui
và t́nh thương chứ không như một bổn
phận phải làm. Cần tỏ ra dịu dàng âu yếm,
tránh nóng nảy, lạnh lùng. Lúc cho ăn, cần giúp cho cháu
bé được thoả măn, thích thú, không căng thẳng,
sợ hăi.
3. Khuôn mẫu đầu tiên của em bé là
người mẹ: Em bé bắt chước mẹ. Nếu
người mẹ vui vẻ hài hoà với mọi
người mọi vật và các biến chuyển của
đời sống, sẽ tạo cho em bé một dấu
ấn tin cậy, lạc quan, bác ái, về sau em sẽ
cởi mở với mọi người; c̣n ngược
lại, em sẽ bi quan, khép kín.
4. Nhận biết t́nh thương có uy
quyền: Tṛn một tuổi, em bé khám phá ra rằng nó có
thể làm hài ḷng hay làm mất ḷng mẹ; nó phải hoà hợp
với mọi người, nhất là với mẹ. Nó t́m
cách giữ được t́nh yêu thương của
mẹ, v́ đó là tất cả sự yên nguy của nó. T́nh
yêu thương trong uy quyền làm cho em bé lớn lên trong
ḷng trông cậy.
5. Kỷ luật đầu tiên: T́nh
thương của người mẹ phải bao gồm
một kỷ luật cần cho sự giáo dục. Cần
có giờ giấc và điều độ trong việc
ăn, ngủ, đi vệ sinh. Không nên thoả măn hết
mọi ao ước của đứa bé. Thiếu ư
thức về những giới hạn cần thiết, ta
sẽ làm cho cháu trở thành đứa trẻ hay đ̣i
hỏi, hỗn, không biết tự chủ, không biết
để ư tới người khác. Người mẹ
cần thông minh và nghị lực để phát hiện
những đ̣i hỏi không chính đáng và không chiều theo
những đ̣i hỏi ấy. Tuy nhiên, kỷ luật này
không được ngăn cản đứa bé bày tỏ
những ước vọng chính đáng, khiến nó cảm
thấy cuộc sống khắt khe, không có cơ hội
thành công. Những giới hạn quá hẹp sẽ khiến
đứa bé về sau trở thành loại người
lớn dễ bất măn hoặc hay nói dối. Để có
thể phát triển điều hoà, đứa bé cần
thấy được nơi t́nh yêu người mẹ
những nét của t́nh yêu Thiên Chúa.
6. Tập tiếp xúc: Đứa bé cần
bắt chước mẹ nó để biết tiếp xúc,
quan tâm tới người khác, nhất là trong cách mẹ nó
cư xử với anh chị nó và với những
người khác trong gia đ́nh.
7. Đào tạo luân lư: Những điều
nói trên tạo cơ sở cho một lương tâm ngay
thẳng. Đứa bé sống luân lư bằng cách dự
phần vào ư thức luân lư (lương tâm) của mẹ
nó. Nó thoả ḷng khi mẹ vui, nó ân hận khi mẹ
buồn. Nét mặt người mẹ có một ư nghĩa
đối với đứa bé. Cả tính khí và những
tiếng dùng của người mẹ cũng vậy.
Việc sửa phạt được biểu lộ qua
thân xác và tâm hồn bằng cái nh́n. Cái nh́n của
người mẹ đặc biệt có sức đưa
dẫn đứa bé vào trật tự luân lư. Khi nó có
lỗi, người mẹ cần nh́n cách nào để cái
nh́n ấy không phải là một sự từ chối yêu
thương nhưng đúng hơn là một sự đau
khổ, buồn phiền, trách móc và mời gọi. Cái nh́n
ấy sẽ giúp đứa bé nhận ra sự trách móc
của Thiên Chúa, khi phải xa “nụ cười” của
Ngài.
8. Đời sống tôn giáo và giáo lư: Trên
đây đă là một sự đào tạo tôn giáo, nhưng
vẫn c̣n ở mức độ của giáo dục nhân
bản. Ta c̣n cần đề cập rơ hơn:
Trước hết, quan trọng nhất là gương
sáng: Cách sống của người lớn, cách xếp
đặt mọi sự trong nhà, thái độ của cha
mẹ khi cầu nguyện, khi phản ứng trước
những chuyện thường ngày. Tiếp đến là
một sự khai tâm gọi là “sữa đức tin”:
Giới thiệu cho các cháu biết Thiên Chúa ngay từ khi
tập nói, và tập cho các cháu hướng về Thiên Chúa
qua những cử chỉ đơn giản nhất (ṿng
tay, cúi đầu) và những lời nguyện bập bẹ:
Con ạ Chúa, cám ơn Chúa cho con ăn cơm, cám ơn Chúa
cho con đi ngủ, con cám ơn Chúa con sẽ ngoan hơn...
“Trước hết các đôi bạn Kitô
hữu làm việc tông đồ trong chính gia đ́nh ḿnh,
bằng một đời sống đúng theo luật Chúa
dưới mọi khía cạnh, bằng việc đào
tạo về mặt giáo lư Kitô giáo cho con cái, giúp chúng
trưởng thành trong đức tin, giáo dục đức
khiết tịnh, chuẩn bị cho chúng vào đời,
săn sóc để chúng tránh những nguy hiểm về ư
thức hệ và luân lư mà chúng đang bị đe dọa.
Bên cạnh, giúp chúng hội nhập vào cộng đồng
Giáo Hội và cộng đồng dân sự cách tiệm
tiến và có tinh thần trách nhiệm; giúp đỡ và góp ư
cho chúng trong khi chọn lựa ơn gọi.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 71)
Việc giáo
dục các cháu 13, 14 tuổi trở lên thật khó. Khi con cái
c̣n bé tí xiú, chúng cần cha mẹ bảo trợ và âu
yếm. Nhưng sẽ tới một thời gian sớm
hơn ta tưởng chúng đi t́m con người riêng trong
cách xử sự và cả trong vấn đề đạo
giáo nữa. Thời kỳ ấy sẽ làm cho cả cha
mẹ lẫn con cái phải khổ tâm. Bậc cha mẹ
sẽ biết xóa ḿnh đi trước nhân cách của
đứa con đang lớn lên, và t́m cách giúp con cái đáp
lại tiếng gọi của Chúa theo cách của nó,
chứ không rập theo cách của cha mẹ. Bậc cha
mẹ nhớ rằng, dù không nói ra, đứa con sẽ
rất khâm phục cha mẹ, nếu họ sống
đức tin với ḷng xác tín, mà không cưỡng ép chúng
làm những việc đạo đức như họ.
Ước ǵ các gia đ́nh Kitô giáo có được một
bầu khí vừa che chở vừa cởi mở, trong
đó, con cái cảm thấy được tôn trọng và
nh́n thấy nơi cha mẹ những tấm gương
sáng về ḷng tốt, ḷng chung thủy, t́nh thân mật, ḷng
biết ơn, tinh thần trách nhiệm và cần cù làm
việc, tất cả phản ánh một đức tin sâu
xa. Việc giáo dục ở tuổi này sẽ đỡ khó
khăn hơn nếu ta đă giúp cho các cháu biết cởi
mở, tin cậy phụ huynh. Cần nhẫn nại, dành
thời giờ cho các cháu, trở thành người bạn
của con ḿnh.
Cần
để ư xem con cái làm bạn với những ai. Cần
ngăn cản các cháu chơi với bạn xấu.
Ngược lại, khuyến khích và tạo điều
kiện cho chúng chơi với bạn tốt. Thánh nữ
Têrêxa Avila khi kể lại thời choai choai của ḿnh,
đă viết: “Nếu tôi phải khuyên các bậc làm cha
mẹ, tôi sẽ nài xin họ hết sức lưu ư
tới bạn bè của con cái trong lứa tuổi này. Đi
lại với những bạn bè xấu có thể đem
lại những hậu quả thật đáng tiếc, v́
tự bản chất, chúng ta dễ bắt chước
điều xấu hơn là điều tốt.
Trường hợp tôi cũng thế. Tôi có người
chị lớn tuổi hơn nhiều, dẫu chị
rất đoan trang và nhân đức, tôi đă chẳng
học đ̣i chị được điều ǵ. Trái
lại, tôi bắt chước hết mọi cái xấu
nơi một người chị họ thường lui
tới nhà tôi. Lối chuyện văn của chị rất
lẳng lơ đến nỗi mẹ tôi, v́ thấy
chị có thể gây hại cho tôi, đă cố gắng
hết sức để ngăn chị khỏi đến
nhà tôi, nhưng mẹ tôi đành bất lực, v́ chị có
rất nhiều lư do để tới.”
Kinh
nghiệm của Thánh Gioan Boscô là đừng la mắng
trước đám đông nhưng nói riêng thật nhỏ
nhẹ. Ngài cũng c̣n dạy: “Yêu thương bạn
trẻ thôi chưa đủ, c̣n phải làm sao để
bạn trẻ cảm nhận được rằng chúng
ta yêu thương họ.”
Cần giúp
các cháu biết phát huy tinh thần trách nhiệm, biết
tự lo tổ chức cuộc sống, biết tự
sắp xếp các công việc của ḿnh và tự nguyện
làm, không đợi nhắc bảo. Nhắc các cháu biết
xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng khi bắt đầu
mỗi ngày cũng như trước mỗi việc làm và
lời nói, biết gắn bó yêu mến Chúa Giêsu và quyết
bước theo con đường Ngài, biết dành ưu
tiên cho việc bổn phận, biết làm việc theo
thời khoá biểu và điều hoà các bổn phận khác
nhau theo thứ tự ưu tiên. Nói chung, nếu các cháu
biết chăm lo bổn phận th́ sẽ tránh
được nhiều cạm bẫy ở đời và
có thể sớm trưởng thành.
“V́ là người truyền sự sống cho
con cái, cha mẹ có bổn phận hết sức quan
trọng phải giáo dục chúng, và v́ thế, họ
phải được coi là những nhà giáo dục đầu
tiên và chính yếu của chúng. Vai tṛ giáo dục này quan
trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó
ḷng bổ khuyết được. Thật vậy, chính
cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đ́nh một
bầu khí thấm nhuần t́nh yêu cũng như ḷng thành
kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho
việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong
đời sống cá nhân và xă hội được dễ
dàng. Do đó, gia đ́nh là trường học đầu
tiên dạy các đức tính xă hội mà không một
đoàn thể nào khác có thể vượt qua
được”. (Tuyên ngôn về việc Giáo dục Kitô
giáo, số 3)
Không ǵ gây tác dụng giáo dục hoặc
phản giáo dục sâu đậm cho bằng những
mẫu gương, gương tốt hoặc gương
xấu, mà trước hết và quan trọng nhất chính
là mẫu gương của cha mẹ.
Anh chị em muốn con ḿnh
sẽ ra sao th́ ngay từ hôm nay anh chị em hăy sống
như thế đi. Những lời khuyên răn và dọa
nạt sẽ chẳng ích ǵ nếu các cháu thấy nhà giáo
dục không sống những điều họ dạy.
Nhiều lắm cũng chỉ đủ sức ngăn
cản chúng làm những điều ấy khi có mặt cha
mẹ mà thôi.
Nếu anh chị em muốn con ḿnh sẽ có
tinh thần trách nhiệm, ngay từ hôm nay anh chị em hăy
làm việc siêng năng chăm chỉ. Muốn cho con luôn
thành thật, anh chị em đừng bao giờ nói dối,
dù chỉ là dối đùa. Muốn con ḿnh biết cư
xử tế nhị, ngay hôm nay anh chị em hăy biết
tỏ ra kính trọng mọi người, kính trọng nhau
và kính trọng chính ḿnh.
Tự thắng ḿnh, chỉnh đốn
lại con người của ḿnh, thật là khó. Đôi khi
ta dễ có cám dỗ nghĩ rằng ḿnh đă lớn
rồi, muộn rồi, làm sao sửa đổi
được nữa! Không đâu, vẫn c̣n kịp
nếu ta bắt đầu từ hôm nay, ngay từ lúc này.
V́ yêu mến những đứa con sẽ sinh ra, v́ yêu
mến bạn ḿnh, v́ yêu mến chính ḿnh và v́ yêu mến
Thiên Chúa, anh chị em hăy
bắt đầu thực hiện cho con cái một cái
mẫu để chúng bắt chước.
Anh chị em cũng đừng quên chọn
cho con cháu những người bạn tốt. Hăy kể cho
các cháu nghe, hăy giúp các cháu thán phục những tấm
gương tốt, nếu có dịp, hăy cho các cháu
được tiếp xúc với những con người
ấy. Rất nhiều danh nhân trong sách vở cũng là
những người bạn và gương mẫu, nhất là những vị thánh.
Nhiều người h́nh như sợ rằng nếu con
ḿnh nên thánh th́ sẽ bị mất nó… Nhiều người
có cái suy nghĩ sai lầm rằng: các thánh là những
vị xa vời, con ḿnh là ǵ mà dám vươn tới. Không
đâu, mọi Kitô hữu đều được
mời gọi nên thánh và đều được Chúa ban
đầy đủ ơn để nên thánh.
Có những vị thánh mà gia đ́nh anh chị
em không thể không biết đến, như các vị
bổn mạng, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, thánh
Giuse, Đức Mẹ Maria. Và nhất là Đấng Thánh,
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Chính Ngài mời
gọi chúng ta bắt chước Ngài: “Hăy học với
Ta” (Mt 11,29); “Như Ta đă yêu thương các con, các con
cũng hăy yêu thương nhau” (Ga 13,34); “Ta đă nêu
gương cho các con, ngơ hầu như Ta đă làm cho các con
thế nào, các con cũng làm như vậy” (Ga 13,15).
Sau cùng, xin mời anh chị em lắng nghe
lời nhắn nhủ của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô
II: “V́ cha mẹ đă sinh ra con cái nên quyền và bổn
phận giáo dục là một điều nằm trong
yếu tính của họ; v́ tương quan giữa họ
với con cái là một t́nh yêu thương không thể thay
thế được, nên quyền và bổn phận giáo
dục của họ có tính cách độc đáo và cơ
bản so với bổn phận giáo dục của
những người khác, đó cũng là một cái ǵ không
thể thay thế và không thể chuyển nhượng
được, cho nên cũng không thể khoán trắng cho
người khác hay bị người khác cưỡng
đoạt” (Tông huấn Gia đ́nh 36).
“Dù
phải đương đầu với những khó
khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn
to lớn trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha
mẹ cần phải tin tưởng và can đảm giáo
dục con cái họ theo những giá trị chính yếu
của đời người. Trẻ em phải lớn
lên trong một sự tự do chân chính trước các
của cải vật chất, biết chọn một
nếp sống giản dị và khắc khổ, v́ xác tín
mạnh mẽ rằng: “giá trị của con người
là do cái ḿnh là, hơn là do cái ḿnh có” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 37)
Làn sóng
văn minh tiêu thụ tràn vào Việt Nam ngày càng nhanh.
Điều đáng sợ cho cộng đoàn Dân Chúa lúc này
không phải là sự cấm cách bắt bớ nhưng chính
là sức hút của xă hội tục hoá. Để sống
theo Tin Mừng, người tín hữu phải lội
ngược ḍng đời. Ngay cả đối với
những tín hữu trưởng thành, tỉnh táo sáng
suốt để nhận rơ và can đảm thực
hiện đúng ư Chúa đă là chuyện rất khó, huống
nữa là bạn trẻ!
Văn minh
tiêu thụ không chỉ ảnh hưởng trên con em chúng ta
mà ngay cả trên chính bản thân mỗi người chúng ta,
khiến tinh thần Tin
Mừng nơi chúng ta có thể phai nhạt lúc nào không hay.
Cần có tinh thần đức tin sâu xa, ta mới có
thể xác tín chiều sâu của 8 mối phúc thật.
Những
điều chân phúc trong Tin mừng sở dĩ là hạnh
phúc chính là v́ nó tạo điều kiện cho con
người đón nhận Thiên Chúa. Sống các mối phúc
chính là đặt ḿnh vào t́nh trạng có thể cảm
nhận được sự hiện diện của Thiên
Chúa, hay đúng hơn, có thể kết hợp với Thiên
Chúa.
Không phải
chỉ trong nhà thờ, nhưng ngay trong gia đ́nh, Thiên Chúa
làm người đang ở với chúng ta. Nước
Trời đang ở giữa chúng ta, chỉ cần chúng ta
biết mở rộng ṿng tay đón nhận. Nghèo khó,
phiền sầu, đói khát sự công chính, giữ ḷng trong sạch…
chính là sẵn ḷng buông bỏ tất cả để có
được Chúa làm gia nghiệp. Điều quan
trọng là sự sẵn ḷng. Cái chúng ta t́m kiếm không
phải là cái nghèo nhưng là sự tự do của một
tấm ḷng không ham mê của cải. Nếu sống trong
cảnh nghèo xác xơ mà ḷng nặng trĩu sự ham mê
của cải th́ vẫn chưa sẵn sàng để
đón nhận Nước Thiên Chúa. Chính v́ thế mà thánh
Mátthêu đă nhấn mạnh tới sự sẵn sàng: “Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó!”
Hạnh phúc
Nước Trời là ở chỗ chúng ta được
thuộc về Thiên Chúa. Điều làm cho người Kitô
hữu khác với những người khác là, ngay trong những
hoàn cảnh đen tối nhất, họ vẫn
được tràn ngập hạnh phúc. Đó là
điều vẫn đang xảy ra hôm nay trong cuộc
sống hằng ngày. Biết bao gia đ́nh Kitô hữu hôm nay
đang sống tám mối phúc thật như thế…
Trước mắt thế gian, chọn bước theo Chúa
Giêsu trên con đường Ngài quả là điên rồ, ngu
xuẩn, nhưng đối với những người
được cứu chuộc th́ đó lại là sự
khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa (1Cr 1,18-25).
Chúng ta
cần giúp các em xác tín ḿnh được gọi sống
với Thiên Chúa, giúp các em khao khát trở nên người con
tự do, biết làm chủ bản thân và biết dùng
mọi sự theo ư Cha trên trời. Muốn vậy,
đừng sợ gieo cho các em ư tưởng nên thánh và nên
thánh lớn ngay giữa đời thường. Quư phụ
huynh cũng đừng sợ một cách sai lầm
rằng nếu các em theo đường tâm linh là ḿnh
mất con! Thành quả lớn nhất của giáo dục là
đào tạo được con cái thành những vị
thánh.
“Trên căn bản phẩm giá
và sứ mạng của họ, các cha mẹ Kitô hữu có
bổn phận đặc biệt phải giáo dục cho
con cái họ biết cầu nguyện, phải đưa
chúng tới chỗ dần dần khám phá ra mầu nhiệm
Thiên Chúa và đối thoại riêng với Ngài: “Nhất là
gia đ́nh Kitô hữu đă nhận được
những ân sủng, và đ̣i hỏi phong phú của bí tích
Hôn Phối, nên ở đó ngay từ nhỏ, trẻ em
phải được dạy dỗ để nhận
biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân, theo
như đức tin chúng đă lănh nhận khi chịu phép
Rửa Tội” (Tông Huấn Gia Đ́nh,
số 60).
Gương
sống cụ thể, chứng tá sống động
của cha mẹ, là yếu tố căn bản và không
thể thay thế được trong việc giáo dục
cầu nguyện: chỉ khi nào cha mẹ cùng cầu
nguyện với con cái, chu toàn chức vụ tư tế
vương giả của họ, họ mới vào sâu
được trong ḷng con cái và để lại đó
những dấu vết mà các biến cố cuộc
sống về sau sẽ không thể xóa nḥa được.
Chúng ta hăy nghe lại lời kêu gọi mà Đức Phao-lô
VI đă ngỏ lời với cha mẹ: “Hỡi các bà
mẹ, chị em có dạy cho các con nhỏ của ḿnh
những lời kinh của người Kitô hữu không?
Chị em có cộng tác với các linh mục để
chuẩn bị cho chúng lănh nhận các bí tích của thời
niên thiếu: xưng tội, rước lễ, thêm sức
không? Nếu chúng đau ốm, chị em có tập cho chúng
quen nghĩ tới những sự đau khổ của
Đức Kitô, quen kêu cầu sự giúp đỡ của
Đức Mẹ Đồng Trinh và các thánh không? Chị em
có lần hạt chung với chúng ở gia đ́nh không? C̣n
anh em hỡi những người cha, anh em có biết
cầu nguyện chung với con cái, với cộng
đồng gia đ́nh, ít là thỉnh thoảng không?
Gương sống của anh em qua sự ngay thẳng trong
tư tưởng và hành động, được hỗ
trợ bằng ít nhiều kinh nguyện chung, quả là
một bài học sống, một hành vi thờ
phượng đáng tuyên dương. Như thế anh em
đang đem b́nh an vào trong tổ ấm gia đ́nh anh em:
“B́nh an cho nhà này”. Đừng quên rằng làm như thế
là anh em đang xây dựng Giáo Hội!”.
Để
đào tạo tâm t́nh cầu nguyện, để giúp các cháu
nhớ có Thiên Chúa hiện diện trong gia đ́nh, mỗi
nhà đều nên có một bàn thờ sáng sủa, tŕnh bày
đơn giản để diễn tả đức tin thật
chính xác. Bàn thờ tổ tiên có thể đặt ngay
dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có sự phân
biệt rơ ràng, hoặc có thể để ở gian khác,
nên tŕnh bày đơn giản, sáng sủa.
Bàn
thờ cần giữ sạch sẽ, tuyệt đối
không để những vật dụng lặt vặt. Nên
lau bàn thờ mỗi chiều thứ bảy hoặc sáng
Chúa nhật.
Điều
cần thiết khi cầu nguyện là nhớ rằng Thiên
Chúa đang hiện diện. Ta ở đó để nghe
Chúa nói và nói với Chúa. Muốn dễ nhớ sự
hiện diện của Thiên Chúa, khi cầu nguyện nên
ăn mặc nghiêm chỉnh, thu dọn đồ
đạc trong pḥng và trên bàn cho ngăn nắp.
Để
khỏi rơi vào thói quen đọc kinh máy móc, cần tránh
kiểu đọc đều đều. Nên đọc
chậm, ngắt câu rành rẽ, nghỉ lâu hơn. Nếu
được, nên dùng cung nói thay v́ cung đọc.
Buổi
tối, cần thu xếp cầu nguyện thật sớm
để tiện cho mọi người, nhất là
để trẻ em có thể tỉnh táo. Tốt nhất là
dăm phút sau khi ăn tối xong. Sáng cũng như
tối, giờ cầu nguyện cần được
đặt lên hàng đầu, trước khi làm mọi
việc khác, để nếu cần xén bớt vài việc
th́ sẽ hy sinh những việc khác chứ không bỏ
mất giờ kinh.
“Tôi xin nói với anh em là
hăy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ
không c̣n thoả măn đam mê của tính xác thịt nữa.
V́ tính xác thịt th́ ước muốn những
điều trái ngược với Thần Khí, c̣n Thần
Khí lại ước muốn những điều trái
ngược với tính xác thịt, đôi bên ḱnh
địch nhau, khiến anh em không làm được
điều anh em muốn. C̣n hoa quả của Thần Khí
là: bác ái, hoan lạc, b́nh an, nhẫn nhục, nhân hậu,
từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có
luật nào chống lại những điều như thế.
Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, th́ cũng hăy nhờ Thần Khí mà tiến bước.”
(Gl 5,16t.22t.25)
Trong ngôn
ngữ của con cái Chúa và trong ơn Chúa, ta gọi là các
nhân đức. Theo ngôn ngữ đời, ta có thể nói
nôm na là những thói quen tốt;
Kinh
nghiệm cho ta thấy việc giáo dục cốt ở
chỗ giúp con em có được những thói quen tốt
lành, về nhân bản cũng như về tâm linh. Thói quen
ngủ sớm dậy sớm, thói quen dâng ngày ban sáng, dâng
ḿnh ban tối, tạ ơn trước và sau bữa ăn;
thói quen làm tṛn bổn phận; thói quen xin phép cha mẹ,
cởi mở bày tỏ với cha mẹ, mau mắn vâng
lời, tỏ ḷng biết ơn, nhận lỗi và xin
lỗi; thói quen ngăn nắp thứ tự… Nh́n vào các gia
đ́nh họ hàng và bạn hữu cũng như chính gia
đ́nh ḿnh, ta sẽ thấy ngay việc giáo dục của
mỗi gia đ́nh thành công nhiều hay ít là tuỳ ở
chỗ tập được cho con em nhiều hay ít thói
quen tốt. Dĩ nhiên, cha mẹ không thể dạy cho con
cái những thói quen mà chính ḿnh không có… Do đó, muốn bảo
đảm kết quả giáo dục cho con em, chính phụ
huynh phải kiểm điểm lại những thói quen
hằng ngày của ḿnh, những thói quen nho nhỏ, từ
bên ngoài, nơi lời nói và cử chỉ… những thói quen
ấy tốt hay xấu?
Anh chị em
đă quá rơ về tầm quan trọng của những thói
quen tốt trong việc giáo dục thiếu niên nhi
đồng. Đây chính là chỗ mà cha ông ta nói: Uốn cây
từ thuở c̣n non, dạy con từ thuở con c̣n trong
nôi.
Cần theo
dơi vở chép bài của các cháu để giúp các cháu biết
tŕnh bày sáng sủa, rơ ràng, sạch đẹp. Giúp các cháu
tập viết đủ nét, liền nét, thuận nét, đều
nét và trọn nét; biết viết các dấu giọng rơ ràng
và đúng quy cách. Đây là những chi tiết hết
sức nhỏ nhưng có tác dụng rất lớn trong
việc h́nh thành nhân cách và cách ứng xử của các cháu.
Đang khi
học cách chu toàn bổn phận, các em sẽ gặt hái
nhiều thói quen tốt. Các nhà giáo dục vẫn nói:
“Bạn càng tập được nhiều thói quen tốt
càng hay, nếu không, những thói quen xấu sẽ làm
hỏng đời bạn”.
“V́ là người truyền sự sống
cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan
trọng phải giáo dục chúng, và v́ thế, họ
phải được coi là những nhà giáo dục
đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai tṛ giáo dục
này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót
sẽ khó ḷng bổ khuyết được. Thật vậy,
chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đ́nh
một bầu khí thấm nhuần t́nh yêu cũng như ḷng
thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp
cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong
đời sống cá nhân và xă hội được dễ
dàng. Do đó gia đ́nh là trường học đầu
tiên dạy các đức tính xă hội mà không một
đoàn thể nào khác có thể vượt qua
được” ( Tuyên ngôn về giáo dục Ki-tô
giáo, số 3)
.
Đạo
lư Á Đông nhấn mạnh năm nhân đức căn
bản là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là ḷng yêu
người, nghĩa là ḷng biết ơn, lễ là biết
kính trọng người khác, trí là biết sáng suốt cân
nhắc, tín là biết giữ lời hứa.
Đạo
lư phương Tây nhấn mạnh bốn nhân đức
căn bản là: Khôn ngoan, dũng cảm, công b́nh và tiết
độ. Khôn ngoan là biết sáng suốt cân nhắc,
dũng cảm là biết cương quyết bước
trên đường lành, công b́nh là biết tôn trọng
của cải và quyền lợi của người khác,
tiết độ là biết giữ đúng chừng
mực.
Hai cụm
nhân đức căn bản theo phương Đông và
phương Tây đều rất ưu việt nhưng
thiếu chiều sâu Kitô giáo v́ không tạo được
sự liên tục giữa tự nhiên và siêu nhiên. Ch́a khoá
mở được sự hài hoà giữa luân lư tự
nhiên và sự thánh thiện Kitô giáo là ba nhân đức
căn bản rút từ bài giảng trên núi, được
nữ thánh Tiến Sĩ Têrêxa Avila tŕnh bày trong quyển
Đường Hoàn Thiện: Khiêm nhường, từ bỏ
và yêu thương, vừa tương ứng với ba nhân
đức hướng thần (Tin, Cậy, Mến),
vừa tương ứng với ba lời khuyên Tin
Mừng (Vâng phục, Nghèo khó, Khiết tịnh).
Các nhân
đức căn bản rất quan trọng, v́ chúng gói ghém
các nhân đức tự nhiên khác và giúp vươn tới ba
nhân đức hướng thần là tin, cậy và kính
mến.
Khiêm
nhường là biết sống đơn sơ bé nhỏ.
Nhân đức này đặt nền móng cho ḷng yêu
người và giúp nhận biết Thiên Chúa để
thờ kính mến yêu.
Từ
bỏ là biết thoát khỏi các thụ tạo để
hướng về Thiên Chúa. Nhân đức này giúp ta dễ
thoát khỏi những ràng buộc của thụ tạo
để gắn bó với Thiên Chúa và trông cậy nơi
Ngài.
Yêu
thương là biết nghĩ đến mọi
người. Nhân đức này giúp ta đem lại hạnh
phúc cho nhau và mở rộng ḷng ta kính mến Thiên Chúa.
Muốn
hướng tới hoàn thiện, ta cần sống các nhân
đức căn bản theo Tin Mừng cho đến cùng,
tức là theo đuổi tinh thần vâng phục, nghèo khó và
khiết tịnh.
“V́ thế, từ ngày chúng tôi nghe
biết như vậy, chúng tôi cũng không ngừng cầu
nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am
tường thánh ư Người, với tất cả
sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho. Như
vậy, anh em sẽ sống được như Chúa
đ̣i hỏi, và làm đẹp ḷng Người về
mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi
thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết
Thiên Chúa hơn. Nhờ sức mạnh vạn
năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh
mẽ để kiên tŕ chịu đựng tất cả”
(Cl 1,9-11).
Trong giáo
dục, ta cần giúp các cháu biết cân nhắc để
nhận rơ ư Chúa trước thực tế hằng ngày và
quảng đại đáp lại.
Thứ
nhất là tập xem xét để chú tâm chu toàn bổn
phận hiện tại.
Trước mọi việc bổn phận lớn nhỏ,
ta đều tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng,
cân nhắc xem phải làm thế nào để đạt
kết quả tốt nhất, rồi làm ngay với
trọn ḷng yêu mến.
Thứ hai là trước các vấn đề
cuộc sống, trước những cảm hứng
muốn làm điều này hay điều khác, dĩ nhiên là
những điều tốt, làm sao để ḍ t́m và
nhận rơ được ư Chúa. Đây là một kinh
nghiệm khá tế nhị nhưng không phải là quá khó.
Trước hết, khi đă có ḷng khao khát muốn biết
ư Chúa, ta cần giữ cho ḿnh một lương tâm ngay
thẳng và một tấm ḷng trong sạch, nếu c̣n
vướng mắc tội lỗi th́ phải thực ḷng
ăn năn. Tiếp đến ta chú tâm xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng,
rồi cân nhắc xem xét kỹ để biết phải
làm ǵ và làm một cách quảng đại. Kinh nghiệm này
gọi là phương pháp xem – xét - làm.
Bước
thứ nhất là xem, tức là quan sát, nh́n kỹ xem hoàn
cảnh thực tế đang đ̣i hỏi điều ǵ,
đâu là những thuận lợi và những khó khăn.
Việc này phải rất chính xác, đủ các khía
cạnh cần thiết. Nếu ta chỉ tuyển một
số sự kiện theo ư ta muốn và gạt hẳn
một số sự kiện không thuận lợi cho
kết luận, kết luận của ta sẽ không trung
thực.
Bước
thứ hai là xét, tức là phân tích t́m lư do sâu xa của các
sự kiện trên và dựa theo tinh thần Tin Mừng
để lượng giá phê phán và tiến đến
một kết luận. Sự phê phán này cần hết
sức vô tư. Thường ta dễ bị thiên lệch
v́ những quyến luyến lệch lạc và những
định kiến có sẵn, khiến cho việc nhận
định bị mất sáng suốt. Do đó cần
tỉnh táo lọai trừ mọi định kiến và
quyến luyến lệch lạc.
Trước
những t́nh thế khó khăn của cuộc sống, ta
cần b́nh tĩnh xét xem hướng đi của ư Chúa
trong hoàn cảnh mới, không vội phản kháng cũng
không t́m cách uốn nắn hoàn cảnh cho hợp với ư
ta.
Muốn
nhận rơ ư Chúa, ta cần để cho ḷng lắng
xuống trong “yêu thương, khiêm nhường và từ
bỏ.” Cần can đảm cậy trông vào Chúa. Đôi khi
ta ngập ngừng không dám bắt tay vào việc, nhưng
bắt đầu làm th́ rồi sẽ thấy ánh sáng
dần dần lộ rơ. Đừng vội nghĩ rằng
ánh sáng vừa nhận được là tất cả ánh
sáng. Cần biết vui ḷng với những giới hạn.
Không đ̣i những điều kiện tối ưu,
cũng không vẽ vời những kế họach
vượt quá quyền hạn và khả năng ḿnh.
Bước
thứ ba là làm, tức là bắt tay vào việc thật
đúng lúc, đúng cách, với cả tấm ḷng. Cứ
quảng đại đáp lại theo điều Chúa
gợi ư trong giây phút hiện tại. Ta chưa thấy rơ
tương lai nên cần biết phó thác cho Chúa. Cứ
bước đi trong b́nh an và chờ để xem Chúa
đang muốn dắt đi đâu. Hành tŕnh Chúa dắt ta
đi là hành tŕnh của kinh nghiệm, theo kiểu quy
nạp. Thoạt đầu mọi chuyện có vẻ
chẳng liên hệ ǵ với nhau, nhưng rồi cuối cùng
sẽ thấy tất cả ăn khớp với nhau cách
kỳ diệu.
“Trong một xă hội đă
bị lung lay và phân hóa do những căng thẳng và xung
khắc v́ sự đối đầu khốc liệt
giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ
loại, trẻ em cần phải có được ư
thức về sự công bằng đích thực, v́ chỉ
có sự công bằng ấy mới đưa đến
sự kính trọng phẩm giá ngôi vị của từng người.
Hơn thế nữa, chúng ta phải có ư thức về t́nh
yêu đích thực, t́nh yêu dệt bằng mối quan tâm chân
thành và việc phục vụ vô vị lợi đối
với kẻ khác, và đặc biệt là đối
với những người nghèo nhất và những
người cần được giúp đỡ nhất.”
(Tông Huấn Gia Đ́nh, số 37)
Thánh Phanxicô
Trần Văn Trung tử đạo ngày 10-6-1858. Khi bị
giam, nhớ ra c̣n thiếu nợ một vài người,
ngài lo lắng sợ các chủ nợ bắt các con ḿnh
ở đợ để trừ nợ, vừa cực
khổ lại có thể quên cả đạo nghĩa
nữa, v́ thế ngài căn dặn vợ rất kỹ
lưỡng, những đồ đạc nào trong nhà
phải bán đi để thanh toán nợ nần thật
chu đáo. (Thiên hùng sử, tr. 308)
Ngày nay, ư
thức công bằng ở ng̣ai xă hội ngày càng xuống
thấp, l8ám lúc dường như người ta chẳng
c̣n biết ǵ đến công bằng. Giữa t́nh huống
ấy, các gia đ́nh Kitô hữu phải quan tâm dạy con
cái ư thức công bằng từ trong những chuyện
nhỏ, trong việc làm bài cũng như khi chơi đùa
với bạn hữu. Chính bậc cha mẹ cũng cần
thường xuyên kiểm tra lại ư thức công bằng
của ḿnh, bởi v́ công bằng là nền tảng của
bác ái, như Tông Huấn về Gia Đ́nh có dạy:
“Một
nhiệm vụ khác của gia đ́nh là huấn luyện con
người đến với t́nh yêu và thực hành t́nh yêu
trong mọi tương quan với người khác, nhờ
vậy gia đ́nh sẽ không tự khép kín, nhưng mở
rộng ra với cộng đoàn, được đánh
động nhờ ư thức về công bằng và nhờ
sự quan tâm đối với người khác, cũng
nhờ bổn phận của trách nhiệm riêng đối
với toàn thể xă hội”. (Tông huấn Gia đ́nh 64)
Cần
hết sức tránh đừng để rơi vào nợ
nần. Nếu mắc nợ, cố gắng trả càng
sớm càng tốt. Nên tập thái độ này từ trong
chuyện thường ngày: Lấy cái ǵ ở đâu, dùng
xong, trả liền vào ở đó. Mượn vật ǵ
của ai, dùng xong, trả lại liền. Thói quen giải
quyết dứt điểm công việc mỗi ngày cũng
giúp dẫn đến thói quen giúp sớm thoát nợ nần
tiền bạc: Vừa có tiền trả nợ là trả
ngay, không chần chừ. Có đến đâu trả
đến đó, cuối năm sẽ thấy nhẹ
nhàng. Chuyện đời sau cũng giống chuyện
đời này: Ai không để ḿnh nợ công việc,
sẽ không nợ tiền bạc. Ai không để ḿnh
nợ đời này, sẽ không nợ đời sau.
“Mọi thành phần trong gia
đ́nh, mỗi người theo ơn riêng của ḿnh,
đều có ân sủng và trách nhiệm để ngày này
sang ngày khác tiếp tục xây dựng sự hiệp thông giữa
các ngôi vị, bằng cách biến gia đ́nh thành một
“trường học đào tạo cho nhân tính
được hoàn hảo và phong phú hơn”. Chỉ có
một tinh thần hy sinh cao cả mới giúp ǵn giữ
được, và kiện toàn được sự
hiệp thông trong gia đ́nh. Thực vậy, sự hiệp
thông này đ̣i hỏi mọi người và mỗi
người biết quảng đại và mau mắn
mở ḷng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho
nhau, và ḥa giải với nhau. Không gia đ́nh nào mà không
biết rằng sự ích kỷ, những bất ḥa,
những căng thẳng, những xung đột đă làm
hại cho sự hiệp thông gia đ́nh biết chừng
nào, và đôi khi c̣n có thể làm tiêu tan sự hiệp thông
ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn h́nh thức chia
rẽ khác nhau trong đời sống gia đ́nh.” (Tông Huấn Gia
Đ́nh, số 21)
Thánh Anrê Kim
Thông chu toàn nhiệm vụ của ḿnh với tinh thần
hăng say, với ḷng đạo đức sốt
sắng và ḷng bác ái hoàn hảo. Ngài được
Đức Cha Cuénot đặt làm Trùm Cả toàn tỉnh B́nh
định. Làng cũng chọn ngài lo việc xét xử, ḥa
giải mọi người trong xóm làng. Vất Vả
nhưng v́ ích chung, ngài vui vẻ đảm nhận.
Điểm đặc biệt trong đời sống
của ngài là ḷng nhiệt thành với các vị thừa sai,
nhất là đối với Đức Cha Cuénot. Trong
những năm tháng dài, dù hiểm nguy đến tính
mạng, ngài đă bố trí cho Đức Cha trốn lánh,
tá túc ngay trong nhà ḿnh, đón tiếp các linh mục, các
thầy giảng đến thăm Đức Cha, phục
dịch các ngài, phí tổn khá nhiều. Sự nhiệt tâm
này dù làm cho đời sống kinh tế gia đ́nh nhiều
lúc trở nên eo hẹp, ngài cũng chẳng nề hà.
Điều làm cho Cụ quan tâm nhất là bảo
đảm an toàn cho Đức Cha và các linh mục. Do đó
khi được các quan đ̣i lên tỉnh bất cứ v́
lư do ǵ, ngài vội đi ngay, đối đáp, trao
đổi sao cho ít thiệt hại nhất, và khi ra về
vẫn giữ sự liên lạc xă giao với họ.
Một
điểm quan trọng trong việc giáo dục gia đ́nh
công giáo ngày nay là đào tạo tinh thần ích chung. Hoàn
cảnh xă hội ngày càng dễ khiến người ta
thành ích kỷ. Bậc cha mẹ công giáo cần dạy con
cái biết quên ḿnh, hy sinh v́ ích chung. Trước mặt
người đời, đây có vẻ là điều
dại dột, nhưng người Kitô hữu xác tín vào
những lời tuyên phúc của Chúa, cần luôn phát huy tinh
thần sẵn sàng chịu thiệt v́ ích chung. Cha mẹ
sẽ đào tạo tinh thần này cho con cái trước
hết là qua những bổn phận hằng ngày
được giao cho chúng. Cần dạy các cháu biết
vui vẻ chu toàn, dành ưu tiên cho lợi ích chung của gia
đ́nh, sẵn ḷng gạt bỏ những thú vui chơi
để chu toàn bổn phận. Tiếp đến, cha
mẹ cần nêu gương cho con cái trong việc hy sinh v́
ích chung của Xă Hội và Giáo Hội, và nhắc bảo con
cái theo hướng ấy.
“Rồi
Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh
hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu
mạng sống ḿnh, th́ sẽ mất; c̣n ai liều mất
mạng sống ḿnh v́ tôi, th́ sẽ cứu được
mạng sống ấy. V́ người nào được
cả thế giới mà phải đánh mất chính ḿnh hay
là thiệt thân, th́ nào có lợi ǵ? Ai xấu hổ v́ tôi và
những lời của tôi, th́ Con Người cũng
sẽ xấu hổ v́ kẻ ấy, khi Người
ngự đến trong vinh quang của ḿnh, của Chúa Cha và
các thánh thiên thần” (Lc 9,23-25).
Trong giáo
dục, ta cần giúp các cháu biết từ bỏ
để sống theo tinh thần kỷ luật. Nói
đơn sơ là biết bỏ ư riêng và mau mắn vâng
lời.
Kỷ
luật đầu tiên là những kỷ luật về
sạch sẽ, ngăn nắp, thứ tự, đúng
giờ.
Trước
hết và trên hết, để các cháu thấm nhuần tinh
thần từ bỏ, chính bậc cha mẹ cần nêu
gương. Cần biết can đảm dứt bỏ những
điều không tốt. Ngay cả trong những
điều tốt, cũng cần biết dừng lại
ở mức độ thực sự cần thiết,
từ ư nghĩ, lời nói, việc làm đến sự
sở hữu. Những ǵ vượt quá mức độ
cần thiết, những cái thừa, ta cần t́m cách
loại bỏ dần.
Văn minh
tiêu thụ tạo ra rất nhiều nhu cầu giả. Càng
biết từ chối những nhu cầu giả, ta càng
thanh thóat hạnh phúc. Cần biết tự chủ, có
chừng mực trong các thứ giải trí. Cần có tinh
thần khó nghèo và siêu thoát trong việc sử dụng các
tiện nghi vật chất: Chỉ dùng ở mức
hết sức cần thiết, không lạm dụng.
Tập can
đảm từ bỏ những điều không cần
thiết, khởi sự từ những thứ linh tinh
chẳng bao giờ dùng tới. Trong nhà có lắm đồ
vật thừa choán mất chỗ của những
đồ dùng cần thiết, gây mất trật tự,
che lấp mất những cái cần thiết, khiến khi
cần ta không t́m ra. Hăy can đảm gom những đồ
vật dư thừa, cho người bán ve chai, hoặc
đốt bỏ.
Những câu
nói thừa, vừa làm vừa nói linh tinh, khiến ta thành
lải nhải, người khác hết muốn nghe.
Những cử chỉ thừa khiến người khác có
cảm tưởng ta thiếu thành thật. Những
việc thừa khiến người khác bực ḿnh.
Việc thừa là việc của người khác, việc
của lúc khác. Việc thừa cũng c̣n là những âu lo vô
ích đủ thứ. Mỗi tối cần nh́n lại xem
trong ngày có những lời nói và cử chỉ nào dư
thừa, không cần thiết. Vất bỏ những
đồ vật thừa, ta sẽ có nhiều chỗ cho
những vật dụng cần thiết được
ngăn nắp. Dẹp bỏ những lời thừa và
việc thừa, ta sẽ có rất nhiều nghị
lực và thời giờ để làm những việc
cần làm.
Ta chỉ có
thể dứt bỏ, khi biết dứt bỏ ngay lúc này,
tại đây, nơi những điều trước
mắt.
Cũng
cần nhớ rằng sự dứt bỏ quan trọng
nhất là dứt bỏ ư riêng. Lắm khi, ta bị lạc
vào chủ quan và theo đuổi ư riêng thay v́ ư Chúa. Cần
nhớ rằng trước mắt Chúa, vâng lời quư
hơn của lễ. Chính đức tin, đức cậy
và đức mến sẽ giúp ta đạt
được sự từ bỏ tận cơi ḷng, sự
thanh thoát và không màng.
“Gia đ́nh Kitô hữu
được sinh động và được
hướng dẫn bằng luật mới của Thần
Khí và trong sự hiệp thông mật thiết với Giáo
Hội là dân tộc vương đế, được
mời gọi sống
việc “phục vụ” của ḿnh v́ t́nh yêu
đối với Thiên Chúa và tha nhân. Như Đức Kitô
thực thi vương quyền của Người
bằng cách hiến thân phục vụ con người, th́
người Kitô hữu cũng t́m được ư nghĩa
đích thực của việc tham dự vào vương
quyền của Chúa ḿnh bằng cách chia sẻ tinh thần
và thái độ phục vụ đối với con
người.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 63)
Khi cậu bé
Saviô xin Thánh Don Bosco dạy con đường nên thánh, ngài
trả lời:
Con
đường nên thánh trẻ
Lấy vui
vẻ làm đầu
Bổn
phận nhớ chuyên sâu
Thực hành
câu giúp ích.
Khi nhắc
các cháu học hành, ta sẽ không nói phải học
để kiếm sống nhưng cần nhấn mạnh
học là để có thể phục vụ hữu
hiệu hơn.
Ta phải
tập cho các cháu biết phục vụ ngay trong bầu khí
gia đ́nh. Các cháu cần biết chu toàn phần việc
đă được giao để giúp cả nhà. Hơn
thế nữa, v́ yêu thương cha mẹ và anh chị em,
cháu c̣n mau mắn làm những việc ḿnh thấy cần
làm, dù chưa ai nhắc bảo. Ta cũng cần dạy con
cái biết lo cho phần rỗi của kẻ khác, biết
mau mắn phục vụ khi trong xóm có tang chế hay có
người gặp tai nạn rủi ro.
Cần
dạy cho các cháu biết tiếp khách. Sau mỗi lần có
khách, nên chỉ vẽ giúp các cháu rút kinh nghiệm. Nói chung là
luyện phản xạ kính trọng người khác.
Tốt dành cho khách, sạch nhường cho bạn. Luôn quan
tâm tới nhu cầu người khác và mau mắn giúp
đỡ. Biết nhường đường cho
người khác khi sử dụng các phương tiện
giao thông. Đó là những thói quen giúp các cháu ngày càng trở
thành người có tư cách.
Ở số 37, Tông Huấn Gia Đ́nh
viết: “Gia đ́nh là trường học đầu tiên,
trường học căn bản về đời
sống xă hội; như một cộng đồng yêu
thương, gia đ́nh nhận ra rằng tự hiến
ḿnh là qui luật hướng dẫn gia đ́nh và làm cho gia
đ́nh tăng trưởng. Sự hiến ḿnh đang làm
cho tương quan giữa đôi bạn với nhau
được sinh động, chính là kiểu mẫu và
nguyên tắc cho sự hiến ḿnh cần có giữa anh
chị em trong nhà và giữa những thế hệ khác nhau
đang cùng sống trong gia đ́nh. Sự hiệp thông và
chia sẻ được thể hiện mỗi ngày
tại gia đ́nh, trong những lúc vui mừng cũng
như khó khăn, chính là khoa sư phạm cụ thể
nhất và hữu hiệu nhất để làm cho trẻ
em có thể hội nhập một cách tích cực, có trách
nhiệm và phong phú vào trong khung cảnh lớn hơn
của xă hội.”
đôi khi ta cảm thấy bất
lực và khổ tâm v́, dù ta không muốn, ta đang thông
truyền cho con cái tính ích kỷ của ta. Nhưng ta sẽ
cố gắng hơn, chắc chắn ta cũng thông ban cho
chúng ḷng tốt, nhờ vào sự thông cảm, tính kiên
nhẫn và tinh thần sẵn sàng phục vụ của ta
đối với con cái cũng như đối với
mọi người.
“Được lệnh
truyền mới của t́nh yêu sinh động và nâng
đỡ, gia đ́nh Kitô hữu tiếp đón, kính
trọng, phục vụ mọi người, luôn luôn nh́n mọi
người trong phẩm giá của họ như những
ngôi vị và như con cái Thiên Chúa” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 64).
Việc đó phải
được phát triển trong phạm vi rộng lớn
của cộng đồng giáo xứ: nhờ đó, qua ḷng bác
ái của gia đ́nh, Giáo Hội có thể mang một khuôn
mặt thân thiện hơn, giúp mọi người t́m
được ở đó một bầu khí huynh
đệ và gia đ́nh.
Ḷng bác ái c̣n phải vượt quá ṿng huynh
đệ giữa những người cùng một
đức tin, bởi v́ “mọi người đều là
anh em tôi”. Nơi mỗi người, nhất là
người nghèo túng, yếu đuối, đau khổ và
bị đối xử cách bất công, ḷng bác ái biết
nhận ra khuôn mặt của Đức Kitô và một
người anh em cần phải yêu mến và phục
vụ.
Trong hạnh
tích Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm (1780-1859), ta
đọc thấy: “Khi bị bắt, cụ án Khảm
đă gần 80 tuổi, vừa là tiên chỉ trong làng,
vừa là hội viên ḍng ba, kiêm chức trùm họ trong giáo
xứ. Mọi người đều công nhận cụ là
người đạo đức, giàu ḷng bác ái và nhiệt
t́nh trong các trách vụ. Các vị thừa sai, kể cả
các giám mục cũng biết tiếng và từng
đến trọ tại nhà cụ trong những ngày khó
khăn. Trong giáo xứ, cụ cộng tác đắc
lực với cha xứ trong việc điều hành tổ
chức họ đạo. Với xóm làng, cụ là một
mẫu người đức độ, quan tâm
đến nhu cầu của mọi người, cả xác
lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho
người nghèo khó và khích lệ mọi người can
đảm trước cơn bách hại. Gia phả con cháu
cụ ghi rằng: “Gia nhân phải kiếm kẻ khó vào
ngồi chung th́ cụ mới ăn cơm.” (Thiên hùng
sử, tr. 29)
Bản giúp
trí nhớ giản dị cho việc đào tạo
đức bác ái là kinh Thương người có
mười bốn mối:
Thương
xác bảy mối :
Thứ nhất: Cho kẻ
đói ăn.
Thứ hai : Cho kẻ khát uống.
Thứ ba : Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
Thứ bốn : Thăm kẻ đau ốm cùng
kẻ tù tội.
Thứ năm: Cho khách
trọ nhà.
Thứ sáu : Chuộc kẻ làm tôi.
Thứ
bảy : Chôn xác kẻ chết.
Thương
linh hồn bảy mối :
Thứ nhất: Lấy
lời lành mà khuyên người.
Thứ hai : Mở dạy kẻ mê muội.
Thứ ba : An ủi kẻ âu lo.
Thứ bốn : Răn bảo kẻ có tội
Thứ năm: Tha thứ
cho kẻ khinh ghét ta.
Thứ sáu : Nhịn kẻ mất ḷng ta.
Thứ
bảy : Cầu cho kẻ
sống và kẻ chết.
“Anh em c̣n nghe Luật dạy
người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng
hăy trọn lời thề với Đức Chúa. C̣n
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng
thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, v́
trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà
thề, v́ đất là bệ dưới chân Người.
Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, v́ đó là thành
của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên
đầu mà thề, v́ anh không thể làm cho một sợi
tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có”
th́ phải nói “có”, “không” th́ phải nói “không”. Thêm thắt
điều ǵ là do ác quỷ.” (Mt 5,33-37)
Cụ Êlêazarô 92 tuổi bị
tố cáo là người tin Chúa. Luật Cựu Ước
cấm ăn thịt heo. Những người có cảm
t́nh đề nghị cụ chỉ giả vờ ăn
thịt heo thôi là sẽ được tha. Thế nhưng
cụ nhất quyết không chịu giả vờ.
Chuyện tương tự cũng đă xảy ra với
Thánh Anrê Kim Thông. Quan Tổng Đốc thương xót
tuổi già của ngài nên đă đề nghị: “Ông hăy
bỏ đạo đi, cách thầm lén cũng
được, rồi trở về gia đ́nh, xưng
tội là xong, có thiệt tḥi ǵ đâu?” Thế nhưng ngài
đă từ tốn trả lời: “Thạch tín là thuốc
độc, uống vào sẽ chết, nhưng cũng có
thuốc giải. Tuy vậy, không ai liều ḿnh uống thạch
tín bao giờ. Việc chối đạo cũng thế”.
Thế là ngài bị kết án lưu đày.
Để
giúp cho con cái biết yêu mến sự thật, trước
hết trong mọi công việc hằng ngày cha mẹ
phải hết sức tôn trọng sự thật. Mọi
lời nói và việc làm của cha mẹ đều
phải luôn chân thật. Cha mẹ phải luôn luôn nói sự
thật với con cái. Đừng bao giờ nói dối
chúng, dù chỉ là dối đùa một chút xíu. Phải làm
sao để trẻ em thấy có thể hoàn toàn tin lời
cha mẹ. Nhờ đó, các em sẽ cởi mở với
cha mẹ cách hồn nhiên, sẽ mạnh dạn bày tỏ
và bàn hỏi: Các em sẽ sống thành thật và vâng
lời.
Cần
dạy các em biết thành thật khi làm bài cũng như khi
chơi với bạn bè. Chúa Kitô là Sự Thật. Do đó,
mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của
người môn đệ Ngài phải luôn trong sáng, chân
thật.
Cần giúp
các em biết luôn sống trong cái nh́n của Chúa. Là những
người con tự do của Thiên Chúa, luôn sống trong
ánh mắt yêu thương của Ngài, các em sẽ tập
cân nhắc phê phán để tự quyết định theo
lương tâm của ḿnh, khi nào thấy cần hỏi ư
kiến nhà giáo dục trước khi quyết định
th́ mau mắn hỏi ngay.
Lớn lên
trong sự thật, con cái chúng ta sẽ thực sự là
những đứa con đầy tự do của Thiên Chúa,
không khiếp nhược trước cuộc đời.
“Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hăy đến cùng tôi,
tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hăy
mang lấy ách của tôi, và hăy học với tôi, v́ tôi có
ḷng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em
sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
V́ ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11,28-30)
Trong thư
gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cũng dạy:
“Đừng làm chi v́ ganh tị hay v́ hư danh, nhưng hăy
lấy ḷng khiêm nhường mà coi người khác hơn
ḿnh” (Pl 2,1-3).
Điều
thứ nhất trong kinh “Cải tội bảy mối có
bảy đức” là “khiêm nhường chớ kiêu
ngạo”, nghĩa là biết nhận ḿnh hèn mọn
trước mặt Thiên Chúa, mọi sự đều
nhờ bởi ơn Chúa, biết ơn Thiên Chúa và biết
ơn mọi người, đồng thời biết
chăm chỉ lắng nghe và vâng lời người trên, và
biết kính trọng và yêu thương mọi người,
trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội.
Noi
gương Chúa Kitô, ta chọn phần thấp hèn, bé
nhỏ, v́ “Ai tôn ḿnh lên, sẽ bị hạ xuống; c̣n ai
hạ ḿnh xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23,12).
Tránh đừng nói về những thành quả của ḿnh
cũng như về những cái hay của gia đ́nh và ḍng
họ ḿnh. Ham danh là một dạng rất tinh vi của
kiêu ngạo. Chạy theo sự khen chê của người
đời, ta sẽ dần dần xa Chúa.
“Ai muốn
theo Ta, hăy từ bỏ ḿnh”. Nóng giận chính là không chịu
từ bỏ ḿnh, và cũng là c̣n nô lệ cho sự kiêu
ngạo. Người khiêm nhường luôn ôn tồn,
nhỏ nhẹ, cử chỉ dịu dàng.
Khiêm
nhường c̣n là biết nhận lỗi, biết chân thành
cám ơn và xin lỗi.
Cần
nhớ khiêm nhường khác với khiêm tốn. Khiêm
tốn là làm ra vẻ nhún nhường bên ngoài, c̣n
đức khiêm nhường Chúa dạy là khiêm
nhường trong ḷng, là thật ḷng nh́n nhận ḿnh
chẳng quan trọng ǵ, chẳng là già cả. Nếu ta có là
ǵ th́ đều do ơn Chúa, nên chẳng có lư do nào mà tự
măn, tự hào, chẳng có lư do nào để coi khinh
người khác. Chính v́ thế, Thánh Nữ Têrêxa Avila
định nghĩa rất chính xác: “Khiêm nhường là
bước đi trong sự thật”.
“Nhờ kết quả của
thừa tác vụ giáo dục, qua chứng từ đời
sống, cha mẹ là những người đầu tiên
loan báo Tin Mừng cho con cái. Hơn nữa, khi cùng cầu
nguyện với chúng, khi cùng với chúng lao ḿnh vào việc đọc Lời Chúa,
và khi làm cho chúng sống thân mật trong thân thể
Đức Kitô bằng việc khai tâm Kitô giáo, họ
trở nên cha mẹ theo nghĩa trọn vẹn, nghĩa là
không những họ sinh ra chúng theo sự sống phần
xác mà c̣n theo cả sự sống mà nhờ sự
đổi mới của Thần Khí tuôn trào từ thập giá và
sự phục sinh của Đức Kitô.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 39)
Kinh thánh không
chỉ đơn thuần là bộ sách do người ta
viết ra, nhưng c̣n là Lời của Thiên Chúa. Chinh v́
thế Kinh thánh luôn có giá trị cho mọi người,
mọi thời đại. Chính Chúa Thánh Thần đă tác
động và soi dẫn cho những người Ngài
chọn để họ tùy theo tài năng và cách thế
riêng của ḿnh mà viết lên những điều Ngài
muốn họ viết ra v́ ơn cứu độ chúng ta.
Thế nên, Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa nói với con
người bằng ngôn ngữ loài người.
Các nghị
phụ Công đồng Vaticanô II thiết tha nhắn nhủ
mọi Kitô-hữu: “Hăy năng đọc Thánh Kinh”, v́
như Thánh Giêrônimô nói, “Không biết Thánh Kinh là không biết
Chúa Kitô”.
Để
giúp con em tiếp xúc với chính bản văn Thánh Kinh
như Công Đồng mong ước, nên liệu cho mỗi
em có một quyển Thánh Kinh riêng. Nên chọn những
quyển có in những phần dẫn nhập và chú thích v́
những phần này sẽ giúp cho ta rất nhiều khi
đọc và học hỏi Thánh Kinh.
Hằng ngày
nên dành ít phút để đọc Thánh Kinh và đọc theo
một lịch tŕnh:
- Hoặc
theo niên lịch phụng vụ được ghi trong
lịch công giáo (các bài đọc của thánh lễ mỗi
ngày).
- Hoặc
theo tuần tự các sách trong quyển Thánh Kinh. Khi
đọc đến sách nào, nên coi phần dẫn nhập
của sách đó trước.
Tận
dụng mọi cơ hội để học hỏi thêm
về Thánh Kinh: qua lời giảng của linh mục trong
thánh lễ, qua các lớp học hỏi về Thánh Kinh, qua
đài, qua các sách, báo, phim ảnh về Thánh Kinh hoặc qua
các buổi chia sẻ Lời Chúa với nhau.
Mỗi
tối Thứ Năm, cả nhà nên cùng nhau t́m hiểu
trước đoạn Tin mừng Chúa Nhật sắp
tới. T́m hiểu ư chính và bài
học áp dụng, rồi kiểm điểm đời
sống dưới ánh sáng đoạn Tin mừng vừa
đào sâu. Dành ra ít phút thinh lặng và cầu nguyện
để cho Lời Chúa thấm vào ḷng. Rồi chọn
một câu chính yếu để sống cả tuần.
“Việc giáo
dục này không những chỉ giúp nhân vị
được trưởng thành...nhưng c̣n nhằm giúp
những người rửa tội trong khi họ
được hướng dẫn để dần
dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi, càng
ngày càng ư thức hơn về hồng ân đức tin
đă nhận lănh, biết cách thờ phượng Thiên Chúa
Cha trong tinh thần và chân lư (x. Ga 4,23), nhất là qua việc
cử hành phụng vụ cũng như được
huấn luyện để biết sống theo con
người mới trong công b́nh và thánh thiện của chân
lư (Ep 4,22-24), và nhờ vậy, họ đạt tới con
người toàn thiện, chín chắn, đạt tới
sự sung măn của Đức Ki-tô (x. Ep 4,13), góp phần
làm cho Nhiệm Thể được tăng
trưởng.” (Tuyên ngôn về giáo dục Ki-tô
giáo, số 2)
Thánh Antôn Nguyễn Đích tử đạo ngày
12-8-1838. Con gái ngài là cô Maria Mến cung khai trước toà
điều tra phong chân phước: “Bố tôi tên là
Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Sang, tỉnh
Nam Định. Ông bà nội tôi vốn có ḷng đạo
đức, thấy xa nhà thờ có linh mục th́ lấy làm
tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh, rồi
bố tôi lập gia đ́nh ở đó.”
Về Thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ, ta
đọc thấy: “Ra đời trong một gia đ́nh
công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái B́nh năm 1811, v́
lư do sinh kế, anh Tôma Nguyễn Văn Đệ đă theo
cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở
ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề may và
được mọi người yêu chuộng. Anh rất
nhiệt t́nh với việc trong xứ trong họ. Hầu
hết cờ quạt và đồ trang hoàng trong nhà thờ
và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và
sáng tạo của anh.” (Thiên hùng sử, tr. 446)
Tinh thần
Hội Thánh trước hết là gắn bó với nhà
thờ, với trung tâm sinh hoạt của cộng đoàn
Dân Chúa và nhiệt t́nh đóng góp vào sinh hoạt giáo xứ
theo khả năng của ḿnh. Tuy nhiên ta cần giúp các cháu
có cái nh́n rộng hơn, quan tâm đến Giáo Phận
của ḿnh và Giáo Hội Toàn Cầu. Cần giúp các cháu biết
đồng cảm với Hội Thánh, qua những tin
tức về sinh hoạt Dân Chúa tại giáo xứ, cũng
như những nơi khác trong giáo phận, trên đất
nước Việt Nam và trên toàn thế giới.
“Như Công Đồng Vaticanô
II đă tái xác nhận thật rơ giữa kinh nguyện
của Giáo Hội và kinh nguyện của mỗi tín hữu
có một tương quan sâu xa và sống động.
Bởi vậy, mục đích quan trọng của kinh
nguyện trong giáo hội tại gia là bước dẫn
nhập tự nhiên cho trẻ em đi vào kinh nguyện
phụng vụ của toàn thể Giáo Hội, vừa
chuẩn bị chúng đi vào kinh nguyện phụng vụ
vừa mở rộng việc kinh nguyện này vào trong lănh vực
của đời sống cá nhân, gia đ́nh và xă hội. Do
đó cần phải có sự tham dự của mọi
thành phần trong gia đ́nh Kitô hữu vào bí tích Thánh
Thể, nhất là ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng,
cũng như tham dự vào các bí tích khác, cách riêng là bí tích
khai tâm Kitô giáo cho trẻ em.
Để chuẩn bị và kéo dài ngay
tại nhà ḿnh việc phụng tự được
cử hành ở nhà thờ, ngoài kinh nguyện sáng tối,
các gia đ́nh cũng được tha thiết khuyên
bảo nên đọc và suy niệm Lời Chúa, chuẩn
bị cho các bí tích, tôn sùng và tận hiến cho Trái Tim Chúa
Giêsu, sùng kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a với những
h́nh thức khác nhau, cầu nguyện khi ăn cơm và
thực hành các việc đạo đức b́nh dân”. (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 61)
Thánh Nữ
Anê Lê Thị Thành tử đạo ngày 12-7-1841. Khi con bà là cô
Lucia nụ đến thăm trong ngục, bà khuyên: “Con hăy
về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em
con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng
tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ
vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta
sẽ đoàn tụ trên nước thiên đàng.”
Để
giúp con cái yêu thích tham dự thánh lễ, cha mẹ cần
tập cho chúng quen đi lễ từ nhỏ, thánh lễ
Chúa Nhật, và nếu được, cả thánh lễ
ngày thường. Hơn nữa, cần chỉ dạy các
cháu biết chuẩn bị thánh lễ Chúa Nhật từ
những ngày cuối tuần, từ giặt ủi quần
áo, cắt móng tay, cho đến đọc trước bài
Tin Mừng Thánh Lễ. Nếu được, vào tối
Thứ Năm, cả nhà cùng đọc Tin Mừng Chúa
Nhật sau đó và cùng chia sẻ. Cũng cần nhắc
nhở về tác phong tham dự thánh lễ. Để giúp
các cháu ư thức luật kiêng việc xác ngày Chúa Nhật,
cần nhắc nhở mọi người trong nhà thu
xếp làm xong mọi việc vào ngày Thứ Bảy
để Chúa Nhật có thể nghỉ ngơi. Khi ḥan
cảnh cho phép, thỉnh thoảng nên tổ chức cho
cả nhà đi chơi hoặc đi thăm bà con vào ngày
Chúa Nhật.
Hằng
tháng, cần nhắc các cháu xưng tội. Nhắc cho các
cháu khi bắt đầu một mùa phụng vụ mới
và bố trí sinh họat gia đ́nh theo tinh thần mùa
phụng vụ, như dọn hang đá, ăn chay kiêng
thịt, viếng nhà thờ, viếng nghĩa trang… Mỗi
lần có thể được, nên thu xếp để
cả nhà cùng tham dự phụng vụ với nhau, và
nhiều sáng kiến khác như thế.
Ở số 21, Tông Huấn về
Gia Đ́nh c̣n nhắc ta rằng: “Cách riêng việc tham
dự vào bí tích giao ḥa và bàn tiệc Ḿnh Thánh Chúa Kitô sẽ
đem lại cho gia đ́nh Kitô hữu ơn sủng
cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương
xứng để thắng vượt tất cả
mọi chia rẽ, bước tới sự hiệp thông
đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và
như thế là đáp lại nỗi ước mong
nồng nàn của Chúa là “xin cho tất cả
được nên một” (Ga 17,21).
“Tương
lai việc truyền giảng Tin mừng tuỳ thuộc
phần lớn nơi Hội thánh tại gia. Sứ mạng tông đồ ấy
của gia đ́nh bắt nguồn từ phép rửa tội
và đă nhận được nơi bí tích hôn phối
một sức đẩy mới để truyền
đạt đức tin, để thánh hóa và biến
đổi xă hội hiện tại theo ư Thiên Chúa” ((Tông Huấn
về Gia Đ́nh, số 52)).
Đầu
thập niên 1980, Giáo Hội Công Giáo Nam Triều Tiên
đưa ra một chiến dịch truyền giáo, mời
gọi mỗi gia đ́nh Công Giáo t́m cách đưa v ề
cho Chúa một người. Chiến dịch đă
đạt kết quả cao. Năm 2010, dân số Công giáo
tại Nam Triều Tiên đă vượt hơn 5,4 triệu
người - tức khoảng 11% dân số. Hiện nay
tỷ lệ người Công giáo so với dân số Nam
Triều Tiên đă cao hơn tỷ lệ người Công
giáo so với dân số toàn quốc tại Việt Nam.
Điều
ǵ sẽ xảy ra cho Giáo Hội Việt Nam nếu mỗi
năm mỗi gia đ́nh đem lại cho Chúa một tín
hữu mới?
Hội thánh đă được
Chúa thiết lập làm dụng cụ cứu rỗi nên
chỉ ở trong Hội thánh mới có những
phương tiện hữu hiệu cho việc cứu
rỗi như các bí tích, lời giảng huấn, sự
hướng dẫn, chỉ ở trong Hội thánh
người ta mới được đón nhận
trọn vẹn Chúa Thánh Thần, được kết
hợp với Đức Kitô là Đầu và
được nên con cái tự do của Thiên Chúa Cha.
Hội thánh cho con người cơ hội và giúp con
người điều kiện để nắm chắc
được sự cứu rỗi. Chính v́ thế,
mọi phần tử đă gia nhập Hội thánh
đều được kêu gọi lưu tâm lo lắng
giúp anh chị em ḿnh gia nhập Hội Thánh là Dân Thiên Chúa
để được cứu rỗi, được
nên thánh.
Có lẽ
đa số gia đ́nh công giáo c̣n tiêu cực trong việc
truyền giáo. Nhiều gia đ́nh công giáo sống rất
tốt, được bà con người lương ở
lối xóm quư mến nể phục, thế nhưng
dường như họ ngại nói về Chúa Giêsu, không
dám nói hoặc không biết cách nói.
Người
công giáo thường ngạc nhiên trước sự
nhiệt thành của anh chị em Tin Lành. Không những
nhiệt thành, họ c̣n chăm học hỏi Lời Chúa và
học cách truyền giáo rất kỹ lưỡng
để có khả năng rao giảng Tin mừng. Đa
số các gia đ́nh Tin Lành đều biết cách giới
thiệu Chúa Giêsu cho người khác. Đó là một
tấm gương đáng cho người công giáo suy
nghĩ. Ước ǵ mỗi gia đ́nh công giáo cũng là
một gia đ́nh truyền giáo, để đáp ứng
điều Hội thánh mong đợi.
Theo thánh
nữ Têrêxa Chúa Giêsu, ta có thể nói: Yêu thương
biến gia đ́nh thành một góc thiên đường.
“Gia đ́nh, được
thiết lập do t́nh yêu và được sinh động
cũng do t́nh yêu, là một cộng đồng các ngôi
vị: đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái,
họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đ́nh
là trung thành sống thực tại của sự hiệp
thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm
thăng tiến một cộng đồng đích thực
gồm các ngôi vị. Nguyên lư nội tại, sức
mạnh thường xuyên và mục đích cuối cùng
của một sức mạnh như thế chính là t́nh yêu: Nếu thiếu t́nh yêu, gia đ́nh không phải là
một cộng đồng các ngôi vị; th́ cũng
thế, không t́nh yêu, gia đ́nh không thể sống, lớn
lên và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng
các ngôi vị.” (Tông Huấn Gia
Đ́nh, số 18).
“T́nh yêu giữa người nam
và người nữ trong hôn nhân, và nói rộng hơn, t́nh yêu thương giữa
các phần tử trong cùng một gia đ́nh: giữa cha
mẹ và con cái, giữa các anh chị em, giữa tất
cả bà con họ hàng, được linh hoạt và nâng
đỡ do một sức năng động từ bên trong
đưa dẫn gia đ́nh về một sự hiệp
thông càng lúc càng sâu xa và đậm đà hơn, làm nền
tảng và nguyên lư cho cộng đồng hôn nhân và gia
đ́nh.”
Nói cách
đơn sơ, sự hiệp thông nói đây chính là t́nh gia
đ́nh. Phương tiện luôn sẵn có cho ta để
đào tạo t́nh gia đ́nh chính là các bữa ăn và
giờ giải trí hằng ngày. Cần liệu sao
để cả nhà có thể ăn chung với nhau. Trong
bữa ăn, có thể nhắc nhở nhưng tránh
đừng rầy la, đay nghiến. Nên khen ngợi, bông
đùa, quan tâm hỏi han việc làm của cha mẹ,
việc học của con cái. Cách riêng là quan tâm đến
những ngày kỷ niệm: sinh nhật hoặc bổn
mạng của từng người. Trong giờ ăn, nên
tắt TV để có thể lắng nghe nhau và tṛ
chuyện thân mật. Ăn xong, nên đọc kinh tối
liền. Một tuần vài lần, nên có phần giải
trí sau giờ kinh tối.
T́nh gia
đ́nh là t́nh cảm giữa cha mẹ với con cái,
giữa con cái với cha mẹ và giữa anh chị em
với nhau.
Để
đào tạo t́nh gia đ́nh cho con cái, chính vợ chồng
phải thuận hoà yêu thương trong một sự
hiệp nhất không thể phân ly. Tông Huấn viết
tiếp:
“Sự hiệp thông vợ
chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự
nhiên giữa người nam và người nữ, và
được nuôi dưỡng nhờ ư chí của đôi
bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau toàn thể
dự phóng cuộc đời của họ. Họ chia
sẻ với nhau tất cả những ǵ họ có và chính
bản thân họ…”
“Sự
hiệp thông vợ chồng được đánh dấu
không những do sự duy nhất, nhưng c̣n do tính chất
bất khả phân ly của nó: Sự kết hợp
mật thiết, việc hai người tự hiến cho
nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ
chồng phải hoàn toàn trung tín và đ̣i hỏi họ
kết hợp với nhau cách bất khả phân ly” (19-20).
“Sự hiệp thông vợ
chồng tạo nên nền tảng trên đó xây dựng
được sự hiệp thông rộng lớn hơn
trong gia đ́nh, giữa cha mẹ và con cái, giữa những
anh chị em trong nhà với nhau, giữa những
người bà con gần và những thành phần khác
của gia đ́nh.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 21)
Trong số
117 Hiển Thánh Việt Nam, có 3 vị cùng một gia
tộc. Thánh Giuse Phạm Trọng Tả là anh em thúc bá
với Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm. Con trai
đầu của Thánh Khảm là Thánh Luca Phạm Trọng
Th́n. Cả gia tộc d́u nhau trên đường nên thánh.
Trong sinh
hoạt gia đ́nh Việt Nam, những dịp hồn nhiên
và thuận lợi để đào tạo t́nh gia tộc là
tết nguyên đán và những ngày giỗ. Những gặp
gỡ, những bữa ăn trong những ngày này là dịp
để mọi người sống t́nh hiệp thông không
những giữa những người sống mà c̣n cả
giữa người sống và những người đă
khuất.
Tết Nguyên
đán là dịp sum họp gia đ́nh, kính nhớ tổ tiên
và thăm viếng nhau gia tăng t́nh thân ái. Cần loại
bỏ những chi tiết phong tục quá rườm rà cũng
như những ǵ đi ngược với Tin mừng, và
lưu ư phát huy những ǵ tốt đẹp. Khởi
đầu là việc dọn tất niên. Từ giữa
tháng chạp là thời gian rất thuận tiện
để mỗi gia đ́nh tổng kết một năm
sinh hoạt. Cả cha mẹ và con cái sẽ cùng nhau làm xong
những việc cần thiết c̣n đọng lại;
tổng kết chi thu, thanh toán nợ nần; tổng
kết kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc
một năm qua.Tất cả cần xong trước ngày
ăn bữa tất niên. Bữa ăn này được
coi như để kết toán mọi chuyện: c̣n ǵ
phải xin lỗi nhau hoặc góp ư xây dựng đều nói
hết trong dịp này, để rồi ngày đầu
năm sẽ không c̣n phải nhắc ǵ đến
chuyện cũ, chỉ chúc tuổi nhau thật vui vẻ.
Dịp
tết Nguyên đán, trong những gia đ́nh theo đúng tinh
thần Việt Nam, ẩn dưới những niềm vui
rộn ră đầu xuân là cả một thực tại
linh thiêng trầm mặc đầy ắp không gian: Cơi
hữu h́nh và cơi vô h́nh đan dệt vào nhau, ông bà tổ tiên
đă khuất như thể đang có mặt giữa con
cháu một cách thân thiết, gần gũi, linh thiêng và
đầy an ủi. Có được bầu khí ấy là
nhờ các nghi lễ rất nghiêm túc của phụng tự
gia đ́nh. Từ buổi chiều cuối năm
đến chiều mùng ba Tết là một khoảng
thời gian dành riêng để tưởng nhớ gia tiên
cách thật sâu đậm, và để cho tâm hồn
lắng đọng trong niềm cảm mến biết
ơn.
Sự sum
họp gia đ́nh buổi sáng đầu năm rất quí
giá. Thánh lễ ở nhà thờ xong, mọi người
về nhà ngay, cùng nhau cử hành lễ gia tiên. Sau lễ gia
tiên, các cháu mừng tuổi ông bà, con cái mừng tuổi cha
mẹ, mọi người mừng tuổi nhau. Cũng
cần tế nhị tôn trọng sự thân mật của
các gia đ́nh khác, đừng vội đến nhà
người khác ngay sáng sớm mùng một tết.
Bữa
ăn giỗ là để phát huy t́nh cảm gia đ́nh và gia
tộc, cho nên từ chương tŕnh đến cách
sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để
cả người lớn và trẻ con đều tham
dự tích cực, chan hoà trong t́nh hiệp nhất thân
mật. Do đó, nên chú trọng hơn tới nội
bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách th́ nên
liệu sao để sự hiện diện của họ
không ngăn cản sự thân mật giữa mọi
người trong gia tộc.
Việc
cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng
lời cảm tạ Chúa đă giải thoát các bậc
tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là
để cầu xin Chúa sớm hoàn thành việc thanh
luyện cho những người đă khuất c̣n
vướng mắc hậu quả của tội lỗi.
“Truyền thống xưa nay
của Giáo Hội vẫn quen đón nhận từ nền
văn hóa các dân tộc những ǵ thích hợp để
diễn tả những phong phú vô tận của Đức
Kitô cách tốt hơn. Và chỉ với sự góp sức
của mọi nền văn hóa, những phong phú ấy
mới có thể càng lúc càng bộc lộ rơ hơn và Giáo
Hội mới có thể tiến tới sự hiểu
biết ngày càng trọn vẹn và sâu sắc hơn về
chân lư mà Chúa đă ban trọn cho Giáo Hội.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 10)
Nét nổi
bật trong việc hội nhập văn hoá của Giáo
Hội Việt Nam là truyền thống Đạo Hiếu.
Từ năm 1965, chúng ta đă tiếp nhận lại
việc thờ cúng tổ tiên theo cung cách Việt Nam.
Đến nay sinh hoạt này đă thành b́nh thường và
tạo được thiện cảm nơi bà con
lương dân.
Qua
chiến tranh ly loạn, gia phả sổ sách mai một,
người thân xa lạc nhau. Ngày nay, khắp nơi
dấy lên phong trào t́m cội nguồn, t́m ḍng họ.
Người Công giáo cần chạy đua với anh
chị em lương dân trong việc giáo dục t́nh gia
đ́nh và gia tộc. Sự nhập cuộc này sẽ tô
đậm thêm mối thiện cảm vừa nói, hơn
nữa, c̣n giúp ta cơ hội để đem ánh sáng Tin mừng
xóa tan bóng tối mê tín đang có nguy cơ trở lại
trầm trọng.
Từ
đường không c̣n, mà nếu c̣n cũng khó có
người chăm sóc, v́ lắm trường hợp
cả gia đ́nh trưởng tộc cũng đă lập
nghiệp ở phương xa. Ruộng hương hoả
không c̣n, mà nếu c̣n cũng khó đem lại đủ
lợi tức cho sinh hoạt gia tộc. Để giải
quyết những khó khăn ấy, nhiều gia tộc
đă có sáng kiến thực hiện sinh hoạt phí
hương hoả ngắn hạn và từ
đường lưu động. Trong bữa ăn
họp mặt gia tộc, sẽ quyên tiền sinh hoạt
phí hương hoả cho ngày gia tộc lần sau và mời
gọi đăng kư phụ trách bữa ăn họp
mặt lần sau. Gia đ́nh t́nh nguyện phụ trách ngày
gia tộc lần sau sẽ nhận số tiền sinh
hoạt phí này để lo xin lễ và tổ chức
bữa ăn họp mặt. Gia đ́nh này cũng nhận
di ảnh và bài vị các tổ phụ đem về lo
hương khói ở nhà ḿnh. Như thế, gia đ́nh này
cũng đóng vai thủ từ và nhà họ trở thành
từ đường cho đến dịp giỗ lần
sau. Hằng ngày, mọi người trong gia tộc sẽ
cầu nguyện cho gia đ́nh thủ từ. Gia đ́nh này
sẽ ở trong trái tim của cả gia tộc và cả
gia tộc nên quan tâm thăm hỏi cách đặc biệt,
tới lui và nâng đỡ họ về tinh thần cũng
như vật chất. Các gia đ́nh con và cháu trong gia
tộc, nam cũng như nữ, đều có thể
đăng kư chịu trách nhiệm tổ chức ngày gia
tộc. Giải pháp này cũng đem lại an ủi cho
những gia đ́nh lẻ loi xa xứ, v́ vẫn có cơ
hội t́nh nguyện phụ trách ngày truyền thống gia
tộc. Chắc hẳn việc này đ̣i phải hy sinh
cố gắng nhưng là một hy sinh rất đích
đáng, đạt được hai chiều kích của
Đạo Hiếu, vừa kính nhớ biết ơn Tổ
Tiên Ông Bà Cha Mẹ vừa xây đắp sự cảm thông
trong Gia Đ́nh và Gia Tộc. Kinh nghiệm cho thấy
những người con có ḷng với t́nh Gia Tộc luôn
được Thiên Chúa chúc lành, được tiên nhân
bầu cử, phù hộ và cũng được mọi
người trong Gia Tộc thương mến.
“Giữa ḷng gia đ́nh như
một cộng đồng các ngôi vị, cần phải
dành một sự chú ư đặc biệt cho đứa con,
bằng cách phát huy ḷng quí chuộng sâu xa đối với
phẩm giá ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự
kính trọng thật lớn đối với những
quyền lợi của nó, những quyền lợi mà
người ta phải phục vụ một cách quảng
đại. Đó là điều phải dành cho tất
cả mọi đứa con, mà quan trọng nhất là
đứa con nhỏ tuổi hơn, đang cần đủ
mọi thứ, hoặc đối với một
đứa con bị đau yếu, đau khổ hay tàn
tật.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 26)
Mỗi
người con là một h́nh ảnh của Thiên Chúa,
thế nhưng có những người không biết tôn
trọng con cái. Họ mắng chửi con cái thậm tệ
và nguyền rủa con cái bằng những lời thô
bỉ. Trong giáo dục, chúng ta cần biết tôn trọng
con cái, v́ các cháu là con của Thiên Chúa trước khi là con
của anh chị em. Chính Thiên Chúa trao gởi con cái cho anh
chị em nuôi dạy.
Có những
phụ huynh vẽ ra trong đầu một khuôn mẫu
về đứa con của họ, rồi t́m mọi cách g̣
ép nó theo khuôn mẫu ấy. Như thế là thiếu tôn
trọng con cái và không phải là giáo dục. Giáo dục không
phải là uốn nắn con em theo h́nh ảnh ḿnh muốn
cho nó nhưng là chú ư khám phá xem Thiên Chúa muốn ǵ trên con em
ḿnh để giúp nó phát triển như Ngài muốn.
Khi con cái c̣n
bé tí xíu, chúng cần cha mẹ bảo trợ và âu yếm.
Nhưng sẽ tới một thời gian sớm hơn ta
tưởng chúng đi t́m con người riêng trong cách
xử sự và cả trong vấn đề đạo giáo
nữa. Thời kỳ ấy sẽ làm cho cả cha mẹ
lẫn con cái phải khổ tâm, nhưng bậc cha mẹ
sẽ biết xóa ḿnh đi trước nhân cách của
đứa con đang lớn lên, và t́m cách giúp con cái đáp
lại tiếng gọi của Chúa theo cách của nó,
chứ không rập theo cách của cha mẹ. Bậc cha
mẹ nhớ rằng, dù không nói ra, đứa con sẽ
rất khâm phục cha mẹ, nếu họ sống
đức tin với ḷng xác tín, mà không cưỡng ép chúng
làm những việc đạo đức như họ.
Ước ǵ các gia đ́nh Kitô giáo có được một
bầu khí vừa che chở vừa cởi mở, trong
đó, con cái cảm thấy được tôn trọng và
nh́n thấy nơi cha mẹ những tấm gương
sáng về ḷng tốt, ḷng chung thủy, t́nh thân mật, ḷng
biết ơn, tinh thần trách nhiệm và cần cù làm
việc, tất cả phản ánh một đức tin sâu
xa.
Chính v́
thế, cũng trong Tông Huấn Gia Đ́nh, ở số 21,
chúng ta đọc thấy: “Yếu tố căn bản
tạo để nên sự hiệp thông trong gia đ́nh, chính là sự trao đổi
có tính cách giáo dục giữa cha mẹ và con cái, làm cho
mỗi người đều có thể cho đi và
nhận lại. Qua t́nh yêu, sự kính trọng và vâng lời
đối với cha mẹ, con cái mang lại phần
đóng góp đặc biệt và không thể thay thế
được của chúng cho việc xây dựng một
gia đ́nh thật sự nhân bản và Kitô. Điều
đó sẽ dễ dàng hơn cho chúng nếu các bậc cha
mẹ thực hành nghiêm chỉnh quyền bính của họ
như một tác vụ thật sự hay đúng hơn,
như một việc phục vụ nhắm tới
lợi ích nhân bản và Kitô của con cái. Đặc
biệt hơn, như một việc phục vụ
nhằm làm cho con cái đạt được một
sự tự do thật sự có trách nhiệm, nếu chính
các cha mẹ cũng luôn giữ được một ư
thức bén nhạy về hồng ân mà họ không ngừng
nhận được từ nơi con cái họ.”
Trong giáo dục, tôn trọng con cái
có nghĩa là trở nên người bạn của con cái
ḿnh.
“Việc
dạy giáo lư trong gia đ́nh đi trước, đi kèm và
phong phú hoá mọi h́nh thức khác của việc dạy
giáo lư. Ngoài ra, nơi nào luật lệ chống tôn giáo
chủ ư cản trở việc giáo dục đức tin,
nơi nào chủ nghĩa thế tục lan tràn, khiến
không thể có tăng trưởng tôn giáo đích thực
trong thực tế, th́ Hội Thánh nhỏ tức là gia
đ́nh trở thành môi trường độc nhất trong
đó trẻ nhỏ và thanh niên có thể theo học giáo lư
chân chính. V́ thế, các cha mẹ kitô hữu phải hết
sức cố gắng chuẩn bị để đảm
nhận vai tṛ làm giáo lư viên cho chính con cái ḿnh và để
thực hiện bổn phận ấy với một ḷng
nhiệt thành không mệt mỏi.” (Tông Huấn về
việc Dạy Giáo Lư, số 68 và 39)
“Từ
tuổi thơ ấu cho đến khi bắt đầu
tuổi trưởng thành, việc dạy giáo lư trở nên
một trường học thường xuyên về
đức tin và theo sát những giai đoạn trọng yếu
của cuộc đời, như một hải
đăng soi sáng đường đi của thiếu
nhi, thiếu niên và thanh niên.”
Thánh nữ
Anê Lê Thị Thành, 60 tuổi, tuẫn đạo ngày
12-7-1841. Khi giáo quyền thẩm vấn lập hồ sơ
phong thánh, cô Lucia Nụ, con gái út của ngài, đă kể
về mẹ ḿnh rằng: “Thân mẫu chúng tôi rất
chăm lo việc giáo dục các con. Chính người
dạy chúng ta đọc chữ và học giáo lư, sau lại
dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội
rước lễ. Người không để chúng tôi
biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là,
người thúc giục chúng tôi bằng được
mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội Con
Đức Mẹ và vào ban thiếu nữ thưa kinh ở
nhà thờ.” (Thiên hùng sử, 213)
Thánh Phanxicô
Trần Văn Trung, 33 tuổi. Anh tuyên xưng đức
tin và bị giam trong ngục. Đứa con gái nhỏ
của anh là Catarina Thông đến thăm và
được phép ở lại giúp cha một tháng. Thế
nhưng nghe tin ở xứ nhà có lớp giáo lư, anh đă
bắt nó phải về để theo học giáo lư. (Thiên
hùng sử, tr. 308)
Tiếp
nối tấm gương những bậc thánh phụ huynh
như thế, các bậc cha mẹ công giáo ngày nay cần
quan tâm đến việc học giáo lư của con em. Ở
thành phố, trẻ em lắm khi phải đi học thêm
quá nhiều; ở miền quê, nhiều em phải phụ
cha mẹ lo việc nhà và việc đồng áng. Thế
nhưng, ư thức trách nhiệm của ḿnh, bậc làm cha
làm mẹ cần biết dành mọi ưu tiên cho việc
học giáo lư của con em, chủ động giúp con em thu
xếp thời giờ để có thể đi học
giáo lư thường xuyên đều đặn.
“Khắp
nơi đều cố gắng đẩy mạnh công
cuộc giáo dục mỗi ngày một hơn. Trước
con số học sinh gia tăng mau chóng, người ta gia
tăng trường ốc và cải tiến học
đường, thiết lập thêm những cơ sở
giáo dục khác. Các phương tiện giáo dục và
giảng huấn được canh tân dựa vào những
kinh nghiệm mới. Mặc dù đă có nhiều nỗ
lực lớn lao để đem lại những lợi
ích trên cho mọi người, nhưng vẫn c̣n rất
nhiều trẻ em và thanh thiếu niên chưa
được hưởng sự huấn luyện căn
bản và biết bao người khác vẫn c̣n thiếu
một nền giáo dục thích hợp để phát huy chân
lư và bác ái.” (Lời mở đầu của Tuyên Ngôn về
Giáo Dục Kitô Giáo).
Giúp
được cho con em biết ham học là đă tạo
được một thuận lợi rất lớn cho
việc giáo dục toàn diện. Chỉ cần con em
hiếu học là cha mẹ đă đỡ lo nhiều.
Muốn vậy, cha mẹ cần dành thời giờ quan tâm
tới việc học của con cái.
Trước
hết cần giúp các cháu nắm vững mục đích
việc học. Thánh Bênađô nói: “Người hiếu
kỳ học để mở mang kiến thức;
người kiêu ngạo học chỉ để nâng cao
địa vị trong xă hội; c̣n người mến Chúa
th́ học để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần
rỗi của ḿnh và tha nhân”.
Như thế, đối với người Kitô
hữu, học là để nên người và để
phục vụ hữu hiệu. Do đó, cần tránh thái
độ học chỉ để đối phó với
thi cử, nhưng cần học kỹ, học rộng và
biết cân nhắc phê phán để nắm vững sự
thật. Cần suy nghĩ dựa trên thực tế đời thường
để gắn liền sự học với cuộc
sống và con người.
Cũng
cần giúp các cháu biết cách để học cho kết
quả.
1. Muốn
học tập kết quả, phải bền chí. Tâm trí
phải làm việc tối đa để t́m hiểu
cặn kẽ những điều chưa hiểu. Học
là việc khó nhưng nhớ đến thành quả tốt
đẹp mai sau, ta sẽ có nghị lực.
2. Ưu tiên
cho việc học tập, biết gác lại mọi thú tiêu
khiển, những chuyện vặt vănh để tập
trung vào việc học.
3. Ngày nào
học xong bài ngày ấy. Khi phải làm nhiều bài tập
ở nhà, cần chia thời gian làm bài ra nhiều lúc
để tránh t́nh trạng dồn dập, nhồi nhét.
4. Ngăn
nắp thứ tự.
5. Biết
cách đọc sách.
6. Bắt
đầu một môn học, cần nắm vững
đối tượng, mục đích và phương pháp,
tức là môn học ấy nhằm t́m hiểu những ǵ,
giúp ta phát huy tài năng nào và phải học môn ấy cách
nào mới kết quả tốt.
7. Xem
trước nội dung bài thầy sẽ giảng hôm sau.
8. Ghi lại
những điểm cần thiết khi nghe giảng. Nên
chia tập vở thành hai phần: Phần tự ghi chú và
phần ghi chép những lời thầy cô giảng
để dễ dàng ôn bài cả hai phần.
9. Mạnh
dạn phát biểu, nêu thắc mắc: Nếu có
điểm ǵ chưa hiểu, nên xin thầy cô giảng
lại ngay.
10. Mỗi
tối, xem lại bài đă nghe giảng trong ngày, viết
lại các ư chính và cố gắng ghi nhớ.
11. Học
nhóm: Khi học nhóm, các bạn có điều kiện
để thảo luận, t́m hiểu nhiều cách giải
bài tập khác nhau và giảng cho nhau.
12. Tự ra
đề và làm bài kiểm tra: Nên “đánh dấu
đỏ” những điểm quan trọng có thể
trở thành đề thi, tự đặt câu hỏi
kiểm tra và tự giải các câu hỏi ấy, nhưng
vẫn phải học toàn bộ bài, tránh học tủ.
13. Làm
thật nhiều bài tập: Ngoài những bài tập
thầy cô cho, bạn cứ làm thêm nhiều bài tập khác.
14. Bài làm
phải sạch sẽ: Hai bài giống nhau, bài nào sạch
đẹp hơn thường gây ấn tượng
tốt cho người đọc hơn.
“Tôi xin
gửi đến các gia đ́nh một lời kêu gọi
đặc biệt: Xin các bậc cha mẹ, cách riêng
những người làm mẹ, hăy quảng đại
hiến dâng cho Thiên Chúa những người con
được Chúa mời gọi tiến tới chức
linh mục. Xin hăy vui mừng cộng tác vào tiến tŕnh
ơn gọi của con cái. Tôi đoan chắc rằng,
bằng cách ấy họ sẽ được cảm
nghiệm hạnh phúc của Đức Trinh Nữ Maria:
“Người được chúc phúc hơn mọi
người phụ nữ, và hoa quả ḷng người
cũng được chúc phúc” (Lc 1,42).
“Với
những người trẻ hôm nay, tôi muốn nhắn nhủ
điều này: Các bạn hăy ngoan nguỳ hơn hữa
trước ơn Chúa Thánh Thần; hăy để cho vang
vọng lên trong ḷng các bạn những nỗi mong chờ
lớn lao của Giáo Hội và của nhân loại.
Đừng ngại mở rộng cơi ḷng trước
tiếng gọi của Chúa Kitô. Hăy khám phá ra ánh mắt yêu
thương của Chúa Giêsu đang hướng thẳng
về phía các bạn và hăy hăng hái đáp lại lời
Ngài đang đề nghị các bạn nối gót theo Ngài
cho đến cùng.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn
“Những Mục Tử Như Ḷng Mong Ước”, số
82)
Kể
về chân phước Anrê Phú Yên, cha Đắc Lộ xác
nhận: “Đúng 3 năm trước khi chết, mẹ
thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi
được hạnh phúc rửa tội cho thầy”.
Được rửa tội 3 năm trước khi
chết, tức là năm 1641. Chính năm nầy, vào ngày
Đại lễ Phục Sinh (31-03-1641) lần đầu
tiên cha Đắc Lộ đến Phú Yên, tàu cập
bến tại cửa biển Bà Đài, tức Vịnh Xuân
Đài Ngày nay. Cha Đắc Lộ được quan
Trấn Biên tiếp đón niềm nở, cha lưu lại
đây 2 tháng thăm viếng mục vụ cộng đoàn
tín hữu Phú Yên. Trước khi rời Phú Yên, cha
Đắc Lộ đă rửa tội cho 90 người
tại nhà nguyện trong Dinh Trấn, Anrê Phú Yên là một
trong 90 tân ṭng nầy.
Năm 1642
cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên lần
thứ hai, Anrê Phú Yên ngỏ
lời với cha Đắc Lộ, xin theo cha giúp việc
truyền giáo. Lúc đầu cha Đắc Lộ từ
chối v́ Anrê c̣n trẻ, hơn nữa trong thời buổi
cấm đạo việc di chuyển của đoàn
truyền giáo có đông người là điều nên tránh.
Tuy nhiên rồi cha đă phải thua sự kiên tŕ nài nỉ
của Anrê và của người mẹ đạo
đức, đến không để van xin cho con út quư yêu
của ḿnh được ‘ngồi bên tả hay bên hữu’
mà đến để van xin được đồng
hành yêu mến và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thế là năm
1642, Anrê khăn gói lên đường với cha Đắc
Lộ về Hội An, theo học trường “Thầy giảng
Hội An” do cha thành lập.
Hoàn cảnh
xă hội ngày nay tạo ra một thực tế là phần
đông các gia đ́nh đều ít con, do đó các gia đ́nh
thường ngại dâng hiến con cái ḿnh cho Chúa. Thế
nhưng gia đ́nh nào quảng đại với Chúa th́
sẽ cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa
không bao giờ chịu thua sự quảng đại
của chúng ta. Ước ǵ ngay khi con cái c̣n nhỏ, cha
mẹ đă giúp chúng cảm nghiệm được nhu
cầu lớn lao của Giáo Hội và nhân loại, cảm nghiệm được
tiếng gọi thúc bách của Chúa Cứu Thế. Cả
khi các cháu bắt đầu lớn, cũng đừng
ngần ngại gợi ư các cháu dâng ḿnh cho Chúa. Gieo
được ư thức ấy vào ḷng các cháu, dù chúng không
trở thành linh mục hay tu sĩ th́ ít ra chúng cũng
trở nên những
người có tấm ḷng, những người tốt.
“Việc chuẩn bị hôn nhân
phải được xem xét và thực hiện theo một
tiến tŕnh tuần tự và liên tục. Thật vậy,
nó gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa,
chuẩn bị gần và chuẩn bị tức th́.
Việc
chuẩn bị xa bắt đầu từ thời thơ
ấu, là hướng dẫn để con cái biết
tự chủ và biết sử dụng đúng đắn
các xu hướng riêng của ḿnh, để biết cách
nhận xét và gặp gỡ những người khác phái, và
những chuyện khác như thế. Ngoài ra, c̣n phải có
một sự đào tạo vững chắc về
đời sống thiêng liêng và giáo lư, để hiểu
được rằng hôn nhân là một ơn gọi và là một
sứ mạng đích thực, nhưng vẫn không loại
trừ khả năng tận hiến cho Thiên Chúa trong ơn
gọi linh mục hoặc tu sĩ.
Việc chuẩn bị gần sẽ dựa trên nền
tảng ấy và là một công cuộc lâu dài: Tŕnh bày hôn nhân
như một tương quan liên vị phải
được phát triển liên tục giữa người
nam và người nữ, khuyến khích các cháu đào sâu
những vấn đề về tính dục hôn nhân và
về việc làm cha mẹ có trách nhiệm, với
những hiểu biết cốt yếu gắn liền
với các vấn đề ấy trong lănh vực sinh lư và
y học, và đưa họ tới chỗ làm quen với
những phương pháp tốt để giáo dục con
cái; đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi để họ có được
những yếu tố cơ bản cho một nếp
sống gia đ́nh ổn định, như việc làm
chắc chắn, đủ điều kiện tài chánh,
quản lư khôn ngoan, có khái niệm về kinh tế gia
đ́nh vv...
Việc chuẩn bị liền
trước cuộc cử hành bí tích phải diễn ra trong
những tháng cuối và nhất là trong những tuần
trước lễ cưới để mang lại
một ư nghĩa mới, một nội dung mới và
một h́nh thức mới cho việc quen gọi là
điều tra hôn phối mà giáo luật đ̣i buộc.
Một việc chuẩn bị như thế vốn
cần thiết cho tất cả mọi trường
hợp, lại càng khẩn cấp hơn cho những
đôi hôn phối c̣n gặp nhiều thiếu sót và khó
khăn về mặt giáo lư và thực hành Kitô giáo.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 66)
Phần đông con cái anh chị em sẽ
bước theo ơn gọi hôn nhân. Chính cuộc sống
của bậc cha mẹ phải là tấm gương giúp
con cái thấy rơ hôn nhân là một con đường nên thánh.
Bí tích hôn nhân mời gọi đôi bạn
mỗi ngày phải sống việc thánh hóa bản thân và
thánh hóa gia đ́nh. Cũng do bí tích ấy họ có bổn
phận và được ban ơn để biến
đổi toàn thể đời sống họ thành
một “hy lễ thiêng liêng” liên tục. Như lời Công
Đồng dạy: “Như thế, giáo dân cung hiến cho
Thiên Chúa chính thế giới này nhờ biết phụng
thờ Ngài khắp nơi bằng đời sống thánh
thiện của họ” (Hiến chế Tín lư Ánh sáng Muôn dân, số 34).
Muốn con cái nên người, cha mẹ
cần theo đuổi lư tưởng nên thánh. Đừng
sợ gieo cho con cái ư tưởng nên thánh và nên thánh lớn
ngay giữa đời thường. Đừng lo sợ
một cách sai lầm rằng nếu các em theo
đường tâm linh là ḿnh mất con! Thành quả lớn
nhất của giáo dục là đào tạo được
con cái thành những vị thánh. Chúng ta cần giúp con cái xác
tín rằng ḿnh được gọi sống với Thiên
Chúa, giúp con cái khao khát trở nên
người con tự do, biết làm chủ bản thân và
biết dùng mọi sự theo ư Cha trên trời.
Tiếp
tục suy nghĩ về giáo dục gia đ́nh, chúng ta cùng
suy nghĩ về việc chọn sách vở cho con cái.
Trong Tiểu
Sử Tự Thuật, chương 1, Thánh nữ Têrêxa Avila
viết: “Cha tôi rất thích đọc những sách
đạo đức và người cũng sắm
nhiều sách bằng quốc ngữ cho con cái đọc
nữa. Cùng với sự ân cần mẹ tôi dạy chúng
tôi cầu nguyện và gây cho chúng tôi ḷng sùng kính đối
với Đức Mẹ và các thánh, những sách ấy
bắt đầu nhen nhúm những ước muốn thánh
thiện trong tôi khi tôi mới được chừng sáu
hay bảy tuổi.” Thế nhưng ở chương
tiếp theo, Thánh Nữ lại cho biết mẹ ngài thích
đọc sách kiếm hiệp, khiến ngài cũng bắt
chước mà đọc say mê và v́ thế mà phai lạt
hết ḷng đạo đức đă có trước
đó.
Thánh nữ
ghi lại cả hai mặt lợi hại của việc
đọc sách, để nhắn nhủ các bậc làm cha
mẹ phải quan tâm tới việc đọc sách của
con cái.
Như
thế là cha mẹ có trách nhiệm phải chọn sách cho
con cái. Mỗi gia đ́nh cần có một tủ sách, cả
cho người lớn và trẻ em. Không chỉ gồm Thánh
Kinh, sách kinh, sách giáo lư mà c̣n gồm cả những sách
bổ ích cho việc trau giồi kiến thức và giải
trí.
Ngày nay,
trẻ em của chúng ta đọc rất nhiều sách vô
bổ, c̣n những sách đáng xem th́ chẳng bao giờ
động đến. Điều đó khiến một
số người chống chế khi nghe nói tới
một tủ sách gia đ́nh. Thế nhưng kinh nghiệm
của Thánh Inhaxiô, vị sáng lập Ḍng Tên, sẽ khích
lệ chúng ta. Vị thánh này trước kia là một
hiệp sĩ, chỉ thích đọc chuyện kiếm
hiệp. Đến khi bị thương phải nằm
điều trị, ông muốn đọc sách kiếm
hiệp nhưng trong tủ sách bệnh viện chỉ có
sách về Gương Chúa Giêsu và về cuộc đời
các thánh. Ông đă đọc cho đỡ buồn nhưng
rồi nhờ đó mà được ơn Chúa đánh
động, trở nên một tín hữu nhiệt thành,
một linh mục tông đồ và một vị thánh
lớn.
Thế
nhưng nếu thấy cha mẹ đọc, một lúc nào
đó các em sẽ đọc.
Nên khuyến
khích con em hưởng ứng hội thi đọc sách giáo
xứ.
Tủ sách
gia đ́nh cũng c̣n là nơi cất giữ những CD phim
ảnh và âm nhạc lành mạnh, có giá trị giáo dục cao
về giáo lư cũng như về nhân bản.
Nên nhờ
các vị đặc trách về văn hoá trong giáo xứ
hoặc nhờ các giáo lư viên đến xem tủ sách và cho ư
kiến. Cũng có thể nhờ các vị mua giúp những
sách khó kiếm tại địa phương.
Nói
đến truyền thông xă hội là nói đến sách
vở, báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền h́nh,
internet, là những phát minh tân kỳ của kỹ thuật
ngày nay, đang trở thành những lợi khí sắc bén
nhất trong việc đem tin tức, h́nh ảnh, quảng
bá tư tưởng và lối sống đến cho
mọi người ở khắp nơi trên thế
giới, gây nên những hiệu quả tốt xấu trái
ngược. Công Đồng Vaticanô II đă dùng một trong
16 văn kiện của ḿnh để hướng dẫn
Dân Chúa về vấn đề này. Trong đó, ở số
16-18, chúng ta đọc thấy:
“Để
xử dụng đúng đắn các phương tiện
truyền thông xă hội, những người xử
dụng thuộc những tuổi tác và văn hóa khác nhau
cần phải được huấn luyện về lư
thuyết và phần thực hành một cách thích hợp và
riêng biệt. Để mau đạt tới kết
quả, lớp giáo lư cũng phải có phần tŕnh bày và
giải thích giáo thuyết và quy luật công giáo về
vấn đề này.
Thánh Công
Đồng này nhắc lại cho các con cái của Giáo
Hội bổn phận phải nâng đỡ và trợ giúp
các nhật báo công giáo, các tạp chí, các tổ chức phim
ảnh, các đài và các chương tŕnh phát thanh, phát h́nh
công giáo nhằm mục đích chính là để phổ
biến và bảo vệ sự thật, và cung cấp
nền giáo dục Kitô giáo cho xă hội loài người.
Đồng thời Thánh Công Đồng khẩn khoản
mời gọi các đoàn thể và cá nhân có nhiều năng
lực trong lănh vực kinh tế và kỹ thuật, hăy
tự ư và rộng răi dùng tài nguyên và kinh nghiệm của
ḿnh mà nâng đỡ những phương tiện này khi
chúng phục vụ nền văn hóa đích thực và
việc tông đồ.
Mọi giáo
phận trên thế giới hằng năm phải cử
hành một ngày lễ để dạy dỗ các tín hữu
về bổn phận của họ đối với
vấn đề này, mời gọi họ cầu
nguyện nhiều theo ư chỉ này, và xin họ đóng góp
cho mục đích này: nghĩa là thành thật hy sinh cho việc
phát động, nâng đỡ và cổ vơ những tổ
chức và sáng kiến của Giáo Hội trong vấn
đề này theo nhu cầu của thế giới công giáo.”
Giáo huấn
Công Đồng nhắc nhở giáo dân cần phải ư
thức về tầm quan trọng của truyền thông xă
hội, mời gọi mọi người cổ vơ
việc xuất bản báo chí lành mạnh và hữu ích, phim
ảnh mỹ thuật thuần túy, giúp phổ biến
những tin tức, b́nh luận xác thực, xây dựng:
để nâng cao tâm trí, mưu ich cho xă hội và tôn giáo.
Công
Đồng cũng nhắc nhở mọi người,
nhất là các phụ huynh, cần phải rèn luyện trí
phán đoán, phân biệt điều hay, việc dở,
hướng dẫn cho các bạn trẻ biết
đường lựa chọn. Ngoài việc phải giúp
con cái tránh những sách vở, báo chí và phim ảnh
đồi trụy đang phổ biến khắp nơi,
bậc cha mẹ ngày nay c̣n cần phải quan tâm
hướng dẫn con cái biết sử dụng internet cách
hữu ích. Đây là một lănh vực phức tạp,
bậc làm cha mẹ cần trao đổi với các
phụ huynh khác để có được những kinh
nghiệm thực tế.
“Họ chuyên
cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn
hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ
bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng… Họ ca
tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến phục: và
Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những
người được cứu độ” (Cv 2,42.47).
Những
lời ấy đă trở nên một khuôn mẫu cho
mọi cộng đoàn Hội thánh, từ giáo phận, giáo
xứ cho đến Hội thánh tại nhà là các gia đ́nh.
Một nếp sống Hội thánh trưởng thành
với 5 sự chuyên cần:
Một
chuyên: chuyên cần giáo lư.
Hai chuyên:
vững chí hiệp thông.
Ba chuyên:
bền ḷng phụng vụ.
Bốn
chuyên: vui thú nguyện cầu.
Năm chuyên:
cùng nhau làm chứng.
Trước
hết, về giáo lư, cần giúp con em sớm tiếp xúc
với Lời Chúa. Bổn phận đó trước
hết là của gia đ́nh, như lời Đức Giáo
Hoàng dạy: “Trong nhiều hoàn cảnh ngày nay, việc
dạy giáo lư ở gia đ́nh đă trở nên cần
thiết đến mức tuyệt đối” (Tông
huấn Gia đ́nh 52đ).
Thứ hai,
để xây dựng t́nh hiệp thông gia đ́nh,
mọi người trong nhà
cần phải quyết tâm không để bất cứ
điều ǵ làm cho chia ĺa nhau, mau mắn giao ḥa với
nhau, tha thứ cho nhau mỗi khi có điều ǵ xúc phạm
đến nhau. Mỗi người cần cố gắng
riêng phần ḿnh và t́m cách để tạo bầu khí chung.
Thứ ba,
bền ḷng phụng vụ. Mỗi tín hữu và mỗi gia
đ́nh cần tranh thủ để tham dự đều
đặn các thánh lễ Chúa nhật, và nếu
được, cả thánh lễ ngày thường.
Những nơi thiếu linh mục, không có thánh lễ, chúng
ta cố gắng tham dự các buổi phụng vụ
Lời Chúa và rước Ḿnh Thánh Chúa trong các Chúa nhật.
Nhớ xưng tội thường xuyên để có
thể rước lễ đều đặn. Thật là
tốt đẹp nếu cả gia đ́nh thường
xuyên cùng đi tham dự thánh lễ với nhau.
Thứ
tư, vui thú nguyện cầu: Các gia đ́nh chúng ta ngày nay
cũng cần nhớ lời Chúa Giêsu dạy phải
cầu nguyện luôn luôn, không được nản chí,
phải tỉnh thức mà cầu nguyện (Lc 18,1; Mc 14,38).
Cách riêng là giờ kinh chung sáng tối. Để kinh
nguyện thấm sâu vào đời sống và để
giờ cầu nguyện chung thêm phong phú, mỗi
người trong gia đ́nh cần phát huy một
đời sống cầu nguyện cá nhân: Thích đọc
Lời Chúa riêng, suy gẫm riêng, lần hạt riêng, tập
chiêm niệm trong đời sống, tập cầu
nguyện đang khi làm việc…
Thứ
năm, cùng nhau làm chứng cho Chúa Kitô. Đó là lệnh chính
Chúa truyền cho các môn đệ trước khi về
trời. Tiếp nối gương các thánh tử
đạo, các gia đ́nh công giáo Việt Nam làm chứng
bằng đời sống thánh thiện, bằng công
việc phục vụ tận tâm và khiêm nhường trong
lối xóm, trong các môi trường lao động và bất
cứ nơi nào ḿnh được sai đến.
Là Hội
Thánh tại gia, nếp sống gia đ́nh công giáo phải là
nếp sống 5 chuyên cần, như trong thư chung
1980, Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam đă từng nhắn nhủ: “Gia
đ́nh của anh chị em phải trở nên như
một trường học về đức tin, một
nơi để cầu nguyện, một môi trường
sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông
đồ để làm chứng nhân cho Chúa” (số 12c).
Kinh
nghiệm mục vụ cho thấy t́nh yêu thương
hiệp nhất của cộng đoàn là một sức hút
mănh liệt lôi cuốn người ngoài đến với
Hội Thánh. V́ thế, mọi giáo xứ, giáo họ,
mọi gia đ́nh và mọi người trong giáo phận
cần cam kết bảo vệ và phát huy sự hiệp
nhất.
Một cách
cụ thể, t́nh hiệp nhất cần bắt
đầu từ gia đ́nh nhỏ tới gia đ́nh
lớn, rồi đến họ hàng và thông gia. Để
bảo vệ và xây dựng sự hiệp nhất, cần
bắt đầu từ chính ḿnh, theo gương Chúa Kitô,
Đấng đă hạ ḿnh đến tận cùng
để giao ḥa loài người với Thiên Chúa và nối
kết mọi người với nhau. V́ ích chung, mỗi
người cần biết xóa hẳn ḿnh đi, dẹp
bỏ tự ái và sẵn ḷng nhường chỗ cho
người khác. Sức mạnh để xóa ḿnh cho
hiệp nhất chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Mỗi lần
rước lễ, ta cần nhắc lại lời cam
kết xóa ḿnh cho hiệp nhất.
Tại gia
đ́nh, t́nh hiệp nhất được biểu lộ
nơi các bữa ăn và nơi giờ kinh tối.
Ước ǵ mỗi gia đ́nh con cái Chúa thực sự là
một góc thiên đường giữa trần gian, nhờ
biết tha thứ, yêu thương, đùm bọc nhau và
biết nhắc bảo nhau sống thật tốt lành. Tại giáo xứ, t́nh hiệp
nhất lộ rơ nơi mọi sinh hoạt, cách riêng là
nơi thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa Nhật.
Mọi người cần tích cực góp phần vào
những sinh hoạt ấy.
“Nơi gia đ́nh Nadarét, do ư định nhiệm
mầu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đă sống ẩn
dật nhiều năm tháng. Bởi vậy, gia đ́nh
ấy là nguyên mẫu và là tấm gương cho mọi gia
đ́nh Kitô hữu. Và Gia Đ́nh ấy có một không hai
trong thế giới, đă trăi qua một cuộc sống âm
thầm và lặng lẽ trong một thị trấn
nhỏ Palestina; đă bị thử thách do sự nghèo
khổ, bắt bớ và lưu đầy; đă tôn vinh
Thiên Chúa một cách trổi vượt và tinh khiết,
sẽ không quên cứu giúp các gia đ́nh Kitô hữu và cả
mọi gia đ́nh trên thế giới, để họ trung
thành với các bổn phận hằng ngày của họ,
để họ biết cách chịu đựng những
âu lo và xáo trộn trong cuộc sống, để họ
quảng đại mở ḷng ra trước những nhu
cầu của người khác, để họ vui vẻ
hoàn tất chương tŕnh Thiên Chúa đă định cho
họ.
Ước ǵ thánh Giuse, là “người công
chính”, là người công nhân không biết mỏi mệt, là
người bảo vệ nguyên vẹn tuyệt đối
những ǵ đă được ủy thác, luôn luôn ǵn
giữ các gia đ́nh ấy, bênh vực họ, soi sáng cho
họ!
Ước ǵ Đức Trinh Nữ Maria, là
Mẹ của Giáo Hội, cũng trở nên Mẹ của
“Giáo Hội tại gia”! Ước ǵ nhờ sự trợ
giúp từ mẫu của Mẹ, mỗi gia đ́nh Kitô
hữu đều có thể thực sự trở nên
một “Giáo Hội nhỏ”, trong đó mầu nhiệm
của Giáo Hội Đức Kitô được phản
ảnh và sống lại! Mẹ là Nữ Tỳ của
Chúa, ước ǵ Mẹ là gương mẫu cho mọi gia
đ́nh biết khiêm tốn và quảng đại đón
nhận ư của Thiên Chúa! Mẹ là Người Mẹ
đau khổ dưới chân thập giá, ước ǵ
Mẹ cũng ở đó để xoa dịu những
đau khổ và lau sạch nước mắt của
những ai đang ưu phiền v́ những khó khăn gia
đ́nh họ đang gặp phải!
Và ước ǵ Chúa Kitô, là Vua vũ trụ, là Vua
các gia đ́nh, Đấng đă hiện diện ở Cana,
cũng hiện diện trong mỗi tổ ấm Kitô hữu,
để thông ban cho nó ánh sáng niềm vui, sự b́nh an và
sức mạnh. Hôm nay là đại lễ kính Vương
quyền của Ngài, tôi cầu xin Ngài cho mọi gia đ́nh
biết quảng đại đóng góp phần độc
đáo của ḿnh, để Vương quốc Ngài
được hiển trị trên thế giới,
“Vương quốc của sự sống và sự
thật, của ơn sủng và thánh thiện, của công
lư, t́nh yêu và hoà b́nh”, Vương quốc mà lịch sử
đang lần bước tiến về. (Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Gia Đ́nh, số
86)
“Chính cha
mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đ́nh một
bầu khí thấm nhuần t́nh yêu cũng như ḷng thành
kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho
việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong
đời sống cá nhân và xă hội được dễ
dàng.” (Tuyên Ngôn Giáo Dục Kitô Giáo, số 3)
Giáo dục không phải là dạy
học. Người ta không thể chia các đức tính
tốt thành một giáo tŕnh giảng huấn, mỗi năm
mấy môn, mỗi môn mấy tiết học… Trong việc
giáo dục, sẽ không thể xé lẻ ra từng điểm,
nhưng phải nhào trộn tất cả thành một
bầu khí có khả năng giúp mỗi người trong gia
đ́nh triển nở và đạt tới được
những điểm ấy.
Bầu khí
ấy phải là một bầu khí hạnh phúc và thánh
thiện, ở đó mỗi người đều có
thể yêu thương và cảm thấy ḿnh
được yêu thương, ở đó mỗi
người đều thấy ḿnh được tín
nhiệm và có thể tín nhiệm người khác, mỗi
người đều cảm thấy ḿnh được
lớn lên thật sự trong tương quan với
mọi người và với Thiên Chúa.
Không cần
phải nhiều tiện nghi cũng không cần phải
sung túc mới có được bầu khí đó, nhưng
cần phải có một cái nh́n rơ rệt đầy xác tín
thế nào là hạnh phúc thật. Cần phải tin
tưởng vững chắc rằng hạnh phúc chúng ta kiếm
t́m trước hết phải là hạnh phúc siêu nhiên:
Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có hạnh phúc.
Điều chênh lệch thực sự giữa t́nh
trạng hạnh phúc và t́nh trạng bất hạnh chính là
ở chỗ ta có cảm nhận được có Chúa
đang ngự trong gia đ́nh hay không.
Khi cải
cách ḍng Cát Minh, Thánh Nữ Têrêxa có cao vọng biến
mỗi cộng đoàn tu sĩ thành một góc thiên
đường, nhờ mỗi người đều
biết sống yêu thương, khiêm nhường và từ
bỏ. Ngày nay, chính Thiên Chúa cũng đang ước mơ
thực hiện điều ấy cho mỗi gia đ́nh anh
chị em, để ngay giữa thế gian này mỗi gia
đ́nh anh chị em đă là một góc thiên
đường.
Tông Huấn
Gia Đ́nh, số 22 và 24 nêu 3 ư lớn:
1.
Người phụ nữ có phẩm giá và trách nhiệm
b́nh đẳng với phẩm giá và trách nhiệm của
người nam. Thiên Chúa lại bày tỏ phẩm giá
của người nữ cách cao cả hết sức có
thể khi chính Ngài mặc lấy xác thịt từ
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a mà Giáo Hội tôn kính như
Mẹ Thiên Chúa, gọi Mẹ là E-và mới và giới
thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của
người nữ đă được cứu chuộc.
2. Đáng tiếc là hiện nay trong xă hội
vẫn tồn tại một tâm thức sai lạc nh́n con người không
phải như một ngôi vị, nhưng như một
đồ vật, một món hàng mua bán, để phục
vụ cho lợi thú ích kỷ và lạc dục. Nạn nhân
đầu tiên của tâm thức ấy là người
phụ nữ. Tâm thức ấy gây ra
những kết quả thật cay đắng, như
sự khinh rẻ người nam và người nữ, t́nh
trạng nô lệ, việc áp bức những người
yếu đuối, sách báo phim ảnh khiêu dâm, nạn măi dâm
và mọi thứ kỳ thị gặp phải
trong lănh vực giáo dục, nghề nghiệp và phân phối
công việc v.v...
3. Thượng Hội Đồng Gíam Mục về gia đ́nh kêu gọi tất cả
mọi người hăy dấn thân hành động
để có thể loại bỏ hẳn những kỳ
thị ấy, và để nhờ đó mà đạt
tới chỗ kính trọng trọn vẹn h́nh ảnh Thiên
Chúa đang chiếu tỏa nơi mọi người
chẳng trừ ai.
Áp dụng
giáo huấn ấy vào phạm vi gia đ́nh, chúng ta cần
biết tri ân đón nhận con cái Thiên Chúa ban, không phân
biệt giới tính. Cần dạy các cháu trai ngay từ
nhỏ biết tôn trọng nữ giới và dạy con gái
ngay từ nhỏ phải biết tự trọng.
Ở đây
cũng cần nói riêng về y phục. Y phục không
những để che thân và trang hoàng thể xác mà c̣n
để giúp ta giữ nết na trong sạch, xứng
đáng con cái Chúa. Nước ta từ xưa đă có
những cách ăn mặc kín đáo, nết na,
được các nước khen ngợi. Thế nhưng
với làn sóng văn minh tiêu thụ, nhiều kiểu ăn
mặc lố lăng mất nết đang phá hoại
nền phong hoá nước nhà, và nó cũng c̣n xâm nhập
cả vào nơi nghiêm trang thờ phượng.
Người công giáo phải cương quyết tránh
những cách ăn mặc hở hang, những hàng vải
thưa mỏng, những kiểu may bó sát, những kiểu
cách khêu gợi, lố lăng và mất nết.
Người phụ nữ công giáo cần nhớ lời
dạy của thánh Phêrô: “Ước chi vẻ duyên dáng
của chị em không hệ tại cái mă bên ngoài như
kết tóc, đeo ṿng vàng, hay ăn mặc xa hoa; nhưng
là con người nội tâm thầm kín, với đồ
trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ
mị, hiền hoà: đó chính là điều quư giá
trước mặt Thiên Chúa. Xưa kia, các phụ nữ
thánh thiện là những người trông cậy vào Thiên
Chúa, cũng đă trang điểm như thế” (1Pr 3,3-5).
Thánh nữ
Têrêxa Avila viết về bà mẹ của ngài rằng:
“Mẹ tôi cũng là một phụ nữ nhân đức,
đoan trang, tiết hạnh và suốt đời mang
bệnh. Dù rất nhan sắc, người chẳng bao
giờ màng đến điều ấy; và dẫu chết
lúc mới ba mươi ba tuổi, người đă trang
sức như những bậc cao niên. Mẹ tôi là một
phụ nữ rất trầm tĩnh và rất thông minh.
Suốt đời, người đă chịu nhiều
thử thách cam go và chết một cách thánh thiện.”
Và một phụ nữ như
thế sinh ra một người con đại thánh th́
chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên.
“Bên trong sự hiệp thông
của cộng đồng hôn nhân và gia đ́nh,
người nam được mời gọi sống
sự tự hiến của ḿnh trong vai tṛ là chồng và là
cha.
T́nh vợ chồng đích thực giả
thiết và đ̣i hỏi rằng người chồng
phải có sự kính trọng sâu xa đối với
phẩm giá của vợ ḿnh, như thánh Ambrôsiô đă
viết: “Con không phải là chủ của nàng nhưng là
chồng nàng; nàng được trao cho con để làm
vợ chứ không phải làm nô lệ ... Hăy đáp lại
những quan tâm lo lắng nàng đă dành cho con, và hăy
biết ơn t́nh yêu của nàng”. Người chồng
phải sống với vợ ḿnh bằng một “t́nh
bạn trong ngôi vị thật đặc biệt”. Nếu
là Kitô hữu, người chồng c̣n được
mời gọi phát triển một thái độ yêu
thương mới mẻ, để diễn tả
với vợ ḿnh t́nh bác ái tế nhị và mạnh mẽ
mà Chúa Kitô đă có đối với Giáo Hội.
T́nh yêu đối với người
vợ đă trở thành mẹ, và t́nh yêu đối với
con cái là con đường tự nhiên đưa
người nam đến chỗ hiểu biết và
thể hiện việc làm cha của ḿnh. Kinh nghiệm cho thấy,
sự vắng mặt của người cha gây ra những
sự thiếu quân b́nh tâm lư và tinh thần, cũng như
nhiều khó khăn đáng kể khác trong các tương
quan gia đ́nh; nhưng ngược lại, cũng sẽ
xảy ra như thế nếu sự hiện diện
của người cha lại có tính cách áp bức, nhất
là ở những nơi c̣n có hiện tượng mà
người ta gọi là "đề cao đàn ông",
nghĩa là khi những lợi điểm nam tính
được đề cao quá đáng làm giảm giá phụ
nữ và cản trở sự phát triển các mối
tương quan lành mạnh trong gia đ́nh.
Khi biểu lộ t́nh cha của Thiên Chúa và
sống lại t́nh cha ấy trên mặt đất này,
người nam được mời gọi đứng
ra bảo đảm sự phát triển thống nhất
của mọi thành phần trong gia đ́nh. Để chu
toàn trách vụ này, người cha cần phải quảng
đại lănh lấy trách nhiệm đối với
sự sống được thai nghén trong ḷng người
mẹ, cần phải chú tâm chia sẻ cố gắng giáo
dục con cái với vợ ḿnh, công việc ấy sẽ
không bao giờ làm chia rẽ gia đ́nh, nhưng làm cho gia
đ́nh được vững mạnh trong sự hiệp
nhất và ổn định, nên một lời chứng
về đời sống Kitô hữu trưởng thành
để hướng dẫn con cái vào trong kinh nghiệm
sống động về Chúa Kitô và về Giáo Hội
một cách hữu hiệu hơn.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 25)
Phẩm giá
người nam là chồng và là cha thật cao cả.
Thế nhưng ngày nay, phẩm giá ấy luôn có nguy cơ
bị tàn phá v́ nạn uống rượu. Tệ nạn
say sưa đă tàn phá không biết bao nhiêu gia đ́nh trên
thế giới. Tệ nạn ấy đưa đến
những tội lỗi khiến Trái Tim Chúa vô cùng đau
đớn. Ước ǵ Anh Em là những người
chồng, người cha đă được chịu phép
rửa tội, luôn ư thức về phẩm giá cao quư
của ḿnh và cương quyết giữ đúng phẩm
cách người công giáo. Anh Em hăy can đảm lên,
để bảo đảm hạnh phúc cho ḿnh và cho gia
đ́nh, để bảo đảm sự nên người
của con cái.
“Có những nền văn hóa
biểu lộ một sự kính trọng đặc
biệt và một t́nh yêu thương lớn lao đối
với những người cao niên: thay v́ bị gạt ra
khỏi gia đ́nh hoặc bị coi như một gánh
nặng vô ích, người già vẫn được
hội nhập vào cuộc sống gia đ́nh, tiếp
tục dự phần vào đó một cách tích cực và có
trách nhiệm - dù vẫn phải tôn trọng sự
độc lập của gia đ́nh mới - và nhất là
thi hành một sứ mạng quư báu là trở nên chứng
nhân cho quá khứ và nguồn mạch khôn ngoan cho các
người trẻ và cho tương lai.
“Ngược lại, có
những nền văn hóa khác, nhất là do hậu quả
của sự phát triển kỹ nghệ và đô thị
một cách vô trật tự, đă đưa và c̣n tiếp
tục đưa những người cao niên vào những
h́nh thức sống ngoài lề không thể chấp nhận
được, là nguyên nhân gây ra nhiều đau khổ chua
cay cho họ, và làm cho biết bao gia đ́nh bị nghèo nàn
đi về mặt tinh thần.
“Hoạt động mục
vụ của Giáo Hội cần phải khuyến khích
mỗi người biết khám phá và coi trọng vai tṛ
của những người già trong cộng đồng dân
sự và Giáo Hội, và cách riêng trong gia đ́nh. Trong thực
tế, cuộc sống của những người già giúp
chúng ta thấy rơ bậc thang các giá trị nhân bản; làm
cho người ta thấy sự tiếp nối các thế
hệ và chứng tỏ cách tuyệt diệu về sự
tùy thuộc lẫn nhau của Dân Thiên Chúa. Ngoài ra, những
người cao niên c̣n có đặc sủng vượt qua
những hố phân cách giữa các thế hệ
trước khi chúng xuất hiện. Biết bao trẻ em
đă gặp được sự thông cảm và t́nh
thương trong đôi mắt, trong những lời nói và
những vuốt ve âu yếm của những người
già! Và biết bao nhiêu người già vui hưởng
những lời được linh ứng trong Kinh Thánh
rằng: “Triều thiên của người già là đàn con
cháu của họ” (Cn 17,6). (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 27)
Truyền
thống Việt Nam kính trọng người già không
chỉ trong gia đ́nh và gia tộc nhưng cả ngoài làng
xóm. Những đổi thay của xă hội đang có nguy
cơ làm phai nhạt tâm t́nh đáng quư này. Phần đông
các gia đ́nh vẫn c̣n rất hiếu kính với
người già và chăm sóc chu đáo, nhưng cũng có
một số gia đ́nh sao lăng. Chúng ta cần nhắc
nhở các cháu biết kính yêu người già trong làng xóm, nhờ
đó các cháu sẽ thêm kính yêu các bậc lăo thành trong gia
đ́nh và gia tộc.
“Trước
sự bất chính do tội lỗi gây ra thường
ngăn cản gia đ́nh không thể thực sự tự
thể hiện chính ḿnh và không thể sử dụng các quyền
căn bản của ḿnh, tất cả chúng ta phải
chống lại bằng một sự hoán cải trong tinh
thần và con tim, bao gồm việc từ bỏ ích kỷ
riêng ḿnh để bước theo Chúa Ki-tô thập giá:
một sự hoán cải như thế không thể nào không
gây một ảnh hưởng hữu ích và có sức canh tân
trên chính các cơ cấu xă hội.” (Tông Huấn Gia Đ́nh,
số 9)
Để chiến thắng
tội lỗi, để không sa đi ngă lại, anh
chị em cần t́m ra nguyên nhân tại sao ḿnh vấp
phạm, những dịp nào thường khiến ḿnh
vấp phạm. Diệt được nguyên nhân, sẽ
diệt được hậu quả. C̣n nuôi dưỡng
nguyên nhân, sớm muộn cũng gặt hậu quả.
Nguyên nhân của tội lỗi nằm sâu hơn các dịp
tội. Nguyên nhân tội lỗi nằm ở nơi
những xu hướng xấu trong ḷng ta, mà chúng ta quen
gọi là bảy mối tội đầu. Kiêu ngạo, ham
của, mê dâm, nóng giận, mê ăn uống, ganh ghét,
lười biếng là bảy mối tội đầu.
Những mối tội đầu này rất nguy hiểm v́
chúng là những căn nguyên đưa đến các tội
lỗi khác: Lún sâu vào một mối nào trong các mối
tội đầu ấy người ta đều dần
dần mất hết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và
mất hết tin, cậy, mến.
Cần dám
nh́n thẳng vào những xu hướng xấu của ḿnh,
cần dám thẳng thắn nhận lỗi, cần dám
tự tố cáo ḿnh th́ mới dứt khoát được.
Muốn
chiến thắng tội lỗi, phải xa lánh các dịp
tội. C̣n lân la với dịp tội, trước sau ǵ
cũng vấp ngă. Một người có quan hệ bất
chính với một ai đó th́ phải tuyệt đối
tránh gặp người ấy. Một người hay bài
bạc hoặc nghiện rượu, cần tránh gặp
những người bạn dễ đưa ḿnh tới
những sai phạm ấy. Để tránh những tư
tưởng xấu, cần tránh những câu chuyện
thiếu đứng đắn, những sách báo và phim
ảnh vô luân hoặc những ǵ khêu gợi. Phải
cẩn thận canh chừng đôi mắt: “Đèn của
thân thể tức là mắt. Nếu mắt ngươi
đơn thuần, th́ toàn thân ngươi sẽ sáng láng”
(Mt 6, 22).
Muốn
chiến thắng tội lỗi, đừng bào chữa cho
những tội trong quá khứ và cần biết dứt
khoát với mọi tội trong hiện tại. Những
tội trong quá khứ th́ đă qua rồi, lắm khi không
c̣n đáng sợ nữa. Chính những tội ta c̣n ôm
ấp trong hiện tại mới đáng sợ.
Sau cùng,
muốn chiến thắng tội lỗi, cần biết
tạo cho ḿnh một môi trường tốt. Năng xem
sách tốt, giao thiệp với những người
đứng đăn, chăm chỉ làm việc, siêng
năng lănh nhận các bí tích và nhất là năng chiêm
ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin mừng, tâm hồn ta sẽ
luôn tươi sáng.
Sửa đổi con người ḿnh, quả là gánh
nặng hơn mọi gánh nặng. Thế nhưng hăy
vững tin đến với Trái Tim Chúa Giêsu. Chính Ngài đă
hứa: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng,
tất cả hăy đến với Ta, Ta sẽ cho
được nghỉ nơi lại sức” (Mt 11,28). Hăy
đến với Chúa Giêsu và trút hết cho Ngài mọi gánh
nặng, kể cả gánh nặng tội lỗi,
để Ngài ủi an và nâng đỡ.
“Cần phải có một sự
hoán cải liên lỉ trường kỳ. Sự hoán
cải vừa đ̣i hỏi phải thoát ly từ bên trong
khỏi mọi sự dữ và gắn bó với sự lành
toàn diện, vừa diễn ra một cách cụ thể
như một chương tŕnh luôn đưa người
ta đi xa hơn. Như thế có một tiến tŕnh
năng động được phát triển, từ
từ tiến tới trước, nhờ biết dần
dần đem các ơn Thiên Chúa và những đ̣i hỏi
của t́nh yêu quyết liệt và tuyệt đối
của Ngài hội nhập vào trong đời sống bản
thân và xă hội của con người.” (Tông Huấn Gia
Đ́nh, số 9)
Hoán cải
phải gồm 2 động tác mới trọn vẹn:
Rời bỏ đường cũ rồi phải
bước theo đường mới, dứt khoát với
tọi lỗi rồi c̣n phải gắn bó với Chúa Kitô.
Gắn bó
với Chúa Kitô trên đường mới là tin, cậy,
mến. Đó là ba nhân đức hướng thần.
Những nhân đức này gọi là hướng thần
hoặc có tính Thiên Chúa, v́ hai lư do, thứ nhất là v́ chúng
hướng tới Thiên Chúa, thứ hai là v́ chúng là ơn
Thiên Chúa ban chứ không phải tự sức người
mà có được. Về những nhân đức luân lư,
chúng ta có thể cùng một mẫu số chung với anh
chị em các tôn giáo khác, nhưng ba nhân đức
hướng thần là gia sản riêng của Kitô Giáo, không
có ở đâu khác. Chính v́ thế, chúng ta cần quan tâm phát
huy những ơn đặc biệt này của Chúa.
Tin là suy
phục chủ quyền của Thiên Chúa trên đời ta,
phó thác sinh mạng và tương lai của ta cho Chúa,
để cho Ngài làm chủ và điều khiển mọi ư
nghĩ, lời nói, việc làm của ta. Tin là mau mắn và
vui vẻ vâng nghe tiếng Chúa trong ḷng ta, là luôn đứng về tiếng
Chúa trong mỗi giây phút đời ta.
Cậy là
nương tựa vào Thiên Chúa mà cố gắng hết
sức ta, dù ta rất yếu đuối. Có Chúa là sức
mạnh luôn ở với ta (x. Mt 28,20; Ga 16,33) và bênh vực
ta (Rm 8,31), dù gặp khó khăn
thử thách đến đâu, ta vẫn vững ḷng không nao
núng. Ta biết Chúa thương ta và sẽ đưa ta
tới bờ bến tốt đẹp nhất của
đời người. Trông cậy cũng là tin
tưởng vào mọi lời Chúa hứa: Ai bỏ mọi sự
v́ Chúa sẽ được gấp trăm ở
đời này và được sự sống hạnh phúc
ở đời sau (Mc 10,28-31; 2Tm 2,11-12).
Yêu mến
Thiên Chúa là tha thiết t́m kiếm Ngài, t́m kiếm vinh quang
Ngài và ư muốn Ngài. Yêu mến Chúa là luôn hướng ḷng
về Chúa, ước ao kết hợp với Chúa. Yêu
mến Chúa là luôn làm đẹp ḷng Chúa và mong muốn nên
giống Chúa trong mọi sự. Chúa muốn ta yêu mến
Chúa hết ḷng, hết sức, hết linh hồn ta, và v́
yêu mến Chúa th́ cũng yêu mọi người anh em như
chính ḿnh ta.
Cách đơn giản nhất để thường
xuyên sống ba nhân đức hướng thần là luôn
nhớ Chúa đang hiện diện, sống như thấy
Chúa đang nh́n, và chu toàn bổn phận hiện tại
với t́nh yêu mến.
Việc
truyền giáo phải đặt nền trên đời
sống bác ái, như Đức Phaolô 6 đă viết trong Tông
huấn Loan Báo Tin Mừng, số
28: “Việc Phúc âm hóa cũng bao hàm sự rao giảng
niềm hy vọng vào các lời Chúa hứa; rao giảng t́nh
thương yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và
t́nh yêu thương của chúng ta đối với Thiên
Chúa; rao giảng t́nh thương yêu huynh đệ
đối với mọi người, qua khả năng
trao tặng, tha thứ, từ bỏ và giúp đỡ anh em;
phát xuất từ t́nh thương yêu của Thiên Chúa,
t́nh thương yêu này là ṇng cốt của việc phúc âm
hóa.”
Trong Tông
huấn về Gia đ́nh, số 44, Đức Gioan Phaolô
II nêu rơ t́nh thương ấy trước hết phải
thể hiện ở gia đ́nh: “Trong xă hội chúng ta cần
phải nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng lớn
của ḷng hiếu khách, dưới mọi h́nh thức
của nó hoặc chỉ đơn giản là để
mở rộng cửa nhà ḿnh. Hơn nữa, mở rộng
ḷng ḿnh trước những nhu cầu của anh chị em
chúng ta, hoặc c̣n đi đến chỗ dấn thân
cụ thể để bảo đảm cho mỗi gia
đ́nh có được nơi ăn chốn ở cần
thiết như một môi trường tự nhiên
để bảo vệ và làm cho gia đ́nh được
phát triển. Và trên tất cả, gia đ́nh Kitô hữu
được mời gọi lắng nghe lời khuyến
dụ của thánh Tông Đồ: “Hăy ân cần cho khách
trọ nhà” (Rm 12,13). Do đó, bằng cách noi gương
Đức Kitô và chia sẻ t́nh bác ái của Ngài, họ c̣n
được mời gọi thực hiện việc
đón tiếp những anh chị em đang cần
đến họ: “Kẻ nào cho một người trong
những kẻ bé mọn này uống một bát nước
lă mà thôi, v́ danh nghĩa là môn đệ của Thầy, th́
quả thật, Thầy bảo các con, người đó
sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10,42).
Cũng trong
Tông huấn về Gia đ́nh, ở số 47, Đức
Gioan Phaolô II viết tiếp: “Như thế gia đ́nh Kitô
hữu được mời gọi làm chứng cho
mọi người thấy sự tận tâm quảng
đại và vô vị lợi của ḿnh đối với
những vấn đề xă hội, nhờ sự
“chọn lựa ưu tiên” đối với những
người nghèo và những người sống bên lề
xă hội. Chính v́ thế, khi bước theo Chúa trong một
t́nh yêu thương đặc biệt đối với
tất cả mọi người nghèo, gia đ́nh Kitô
hữu phải lưu tâm cách đặc biệt đến
những ai đói khát, túng thiếu, già cả, những ai
bị đau ốm, nghiện ngập, những
người vô gia đ́nh”.
“Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy
Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời
cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha
Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được
vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ
thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào
chúng tôi đă chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân
danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép
lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên
bố với họ: Ta không hề biết các ngươi;
xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm
điều gian ác!” (Mt 7,21-23).
Những
người nọ đă làm những điều tốt,
đă nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, thế
nhưng lại bị Chúa xếp vào hạng làm điều
gian ác. V́ sao? V́ đó không phải là những điều
Chúa Cha muốn cho họ làm. Họ đă bỏ bê bổn
phận để làm theo ư riêng.
Người
ta thường có khuynh hướng xem nhẹ việc
bổn phận v́ nó không đem lại cho họ sự hào
hứng sôi nổi. Bổn phận có vẻ là chuyện quá
âm thầm, như một cái ǵ tối thiểu, tiêu cực
và thụ động. Thật ra, bổn phận chính là
điểm khởi đầu cần thiết để
vươn tới vô tận. Bổn phận chẳng khác
nào một nén bạc giống nhau đặt vào tay mỗi
người, như cái tối thiểu ta phải chu toàn, và
nhờ t́nh yêu khi chu toàn bổn phận, ta sẽ
vươn được tới tối đa, khiến
một nén sẽ thành hai, thành năm, thành mười (x. Lc
19,11-27). Như thế, mọi danh phận và mọi ơn
gọi đều là con đường để ta nên
thánh và, hơn nữa, nên những vị thánh lớn.
Trước
bổn phận và những thử thách gặp trong cuộc
sống, người ta thường có những phản
ứng khác nhau: Hoặc tránh né v́ sợ gian nan vất
vả, hoặc đón nhận cách miễn cưỡng,
hoặc vui vẻ đón nhận với ḷng biết ơn.
Làm v́ thích, làm v́ sợ h́nh phạt, làm v́ đó là
điều tốt và làm v́ đó là ư Chúa, đó là những
động cơ hành động. Ta cần giúp các em phân
biệt các động cơ hành động khác nhau,
để dần dần các em tiến tới chỗ làm v́
yêu mến Chúa.
Như
người buôn ngọc bán hết mọi thứ
để mua cho được viên ngọc quư, ta cần
biết bỏ hết mọi sự để chu toàn ư Chúa
qua các bổn phận. Phải lo xong việc bổn
phận chính yếu trước đă. Mau mắn từ
bỏ những điều không cần thiết để
chu ṭan bổn phận. Không bao giờ mải mê điều
ǵ đến quên việc bổn phận. Làm tṛn việc
bổn phận với cả tấm ḷng và có tinh thần
trách nhiệm: Phần việc đă được giao,
nếu không làm được, phải nhờ người
khác làm thay đến nơi đến chốn hoặc
phải thưa lại với người đă giao
việc.
Chị thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu nhấn mạnh sự hiện diện
của Thiên Chúa nơi việc bổn phận thường
ngày: “Chúa Giêsu không nh́n xem những việc ta làm lớn
chừng nào nhưng Ngài chỉ nh́n xem ta có đặt t́nh
yêu vào đó hay không”.
Tập trung
vào việc bổn phận và chu toàn với ḷng yêu mến,
là con đường nên thánh giản dị và an toàn
nhất giữa cuộc sống hằng ngày.
Đó
cũng là hướng giáo dục thực tế nhất.
Thay v́ phải mệt mỏi canh chừng cho bạn trẻ
khỏi sa vào cạm bẫy, nhà giáo dục nên nhắm
tới một điều đơn giản: Giúp các em quư
trọng và yêu mến việc bổn phận.
“Người
giáo dân phải làm thế nào để chu toàn nhiệm
vụ trần thế trong những hoàn cảnh
thường xuyên của cuộc sống mà vẫn không xa
ĺa sự kết hiệp với Chúa Kitô, nhưng càng thi hành
công việc của ḿnh theo ư Thiên Chúa lại càng kết
hiệp mật thiết hơn. Bằng cách ấy,
người giáo dân sẽ hăng hái và vui vẻ tiến
bước trên đường thánh thiện, với
sự khôn ngoan và nhẫn nại, cố gắng thắng
vượt mọi khó khăn. Từ việc trong nhà
đến việc ngoài xă hội đều không xa ĺa
động lực siêu nhiên của cuộc sống, theo
lời Thánh Tông Đồ: "Anh em có làm ǵ, nói ǵ, th́ hăy làm
hăy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm
tạ Thiên Chúa Cha" (Cl 3,17) (Sắc Lệnh Tông
Đồ Giáo Dân, số 4).
Dạy con
không ǵ khác hơn là tập cho con ngay từ nhỏ đă có
những thói quen tốt. Muốn vậy, chính cha mẹ
phải có những thói quen tốt, khởi đầu là
những thói quen về sạch sẽ, ngăn nắp
thứ tự và đúng giờ giấc.
Mỗi
vật có một chỗ, vật nào chỗ ấy. “Cái ǵ
lấy ở đâu, trả liền vào ở đó”. Hăy
quyết tâm thực hiện trật tự trong nhà ḿnh
rồi bạn sẽ được b́nh an và đem lại
b́nh an cho người nhà. Âm thầm chăm lo xếp
đặt mỗi vật vào chỗ của nó.
Công việc
cũng vậy. Cần sắp đặt cho mỗi
việc một giờ và làm đúng giờ của nó.
Mỗi việc có một giờ, giờ nào việc
nấy. Tập được thói quen ấy, sẽ
sống thanh thản.
Không làm ngay
việc phải làm là tự khiến ḿnh mắc nợ.
Buổi sáng không chịu làm xong, buổi chiều phải
trả nợ. Không chịu làm xong việc hôm nay là tự
chuốc nợ cho hôm sau. Một học sinh học bài
kỹ mỗi ngày, đến mùa thi không bị căng
thẳng.
Lắm khi,
dù đă hết sức cố gắng, nhưng v́ những
lư do ngoài ư muốn, vẫn bị ối đọng công
việc. Trong trường hợp này, vừa khi có chút
giờ rảnh, nên giải quyết ngay việc bị
ối đọng, nếu cần th́ nhờ hoặc thuê
người khác làm giúp cho xong.
Mỗi ngày
chịu khó một chút, công việc nhà sẽ suôn sẻ
gấp bội. Với người Kitô hữu, đây là
một kho tàng có sẵn trong tay để mua sắm vinh
quang lớn nhất trong cơi đời đời. Sắp
xếp nhà cửa và chu toàn công việc nhà chính là
bước đầu để nên thánh giữa
đời.
Rồi
Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn
theo Ta, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh
hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu
mạng sống ḿnh, th́ sẽ mất; c̣n ai liều mất
mạng sống ḿnh v́ tôi, th́ sẽ cứu được
mạng sống ấy. V́ được cả thế
giới mà phải đánh mất chính ḿnh, nào có ích lợi
ǵ?” (Lc 9,23-26)
Thánh Laurensô
Ngôn (1840-1862) bị bắt khi mới 22 tuổi.
Người vợ trẻ yêu dấu c̣n đó, rồi cha
mẹ đă bao năm nuôi dạy ḿnh nay đang cần
người phụng dưỡng. Đó là nỗi ưu
tư của anh trong những ngày bị giam. Thế
nhưng cũng như trong những chuyện tích của
nhiều vị tuẫn đạo khác tại Việt Nam,
sự yểm trợ tinh thần của những
người thân quảng đại, nhiều khi lại là
yếu tố rất quan trọng. Anh đă trốn về
thăm nhà nhưng gia đ́nh khuyến khích anh trở
lại nhà giam để tŕnh diện. Chính thân mẫu và
người vợ hiền anh thương mến nhất
cũng đến hiện diện trong giờ hành quyết
để khích lệ anh…
Mẩu chuyện ấy cho thấy cần làm sao
để mọi người trong gia đ́nh cùng chung
một lập trường vác thánh giá theo Chúa. Ngay giữa
đời thường, trong mọi chọn lựa
lớn nhỏ, ta cần nhớ lời Chúa Giêsu: “Hăy
chiến đấu để qua được cửa
hẹp mà vào, v́ Ta nói cho các con hay: có nhiều người
sẽ t́m cách vào mà không thể được.” (Lc 13,22-24)
Lên
đường theo Chúa, ta cần dứt khoát với
tội lỗi, dứt khoát làm lành lánh dữ. Đứng
trước một điều xấu và một
điều tốt, ta quyết bỏ điều xấu và
chọn điều tốt. Thế nhưng, trước
hai điều đều tốt cả, ta sẽ chọn
bên nào? Ta cần có sự b́nh tâm để chọn như
Chúa Giêsu đă chọn. Nhắm tới một t́nh yêu
lớn hơn, ta sẽ dần dần tiến lên trong
sự b́nh tâm, với ba mức độ :
Mức
độ 1 là chấp nhận ư Chúa: Giữa 2 thụ
tạo (Ví dụ : làm nghề này hay nghề kia, giàu hay nghèo,
sống lâu hay chết sớm, nói hay im lặng, vinh hay
nhục...), tôi không nhất thiết phải chọn cho
được A hay B. Thái độ của tôi là bên nào giúp
tôi được gần Chúa hơn, bên nào giúp tôi tôn vinh
Danh Chúa hơn, th́ tôi chọn bên ấy. Nói cách khác, Chúa
muốn tôi chọn bên nào, th́ tôi chọn bên ấy. Tôi
giữ cho ḿnh được hoàn toàn tự do, không bị
thụ tạo chi phối, để đón nhận ư Thiên
Chúa.
Mức
độ 2 là yêu thích ư Chúa: Giữa hai thụ tạo A và B,
nếu tôi biết Chúa muốn B cho tôi (tức là B giúp tôi
gần Chúa hơn, làm vinh danh Chúa hơn), tôi quyết
vận dụng tự do của tôi để muốn
được B. Nếu điều Chúa muốn cũng là
điều tôi ưa thích, tôi sẽ đón nhận
điều ưa thích như một trách nhiệm , nếu
ngược lại, tôi sẽ đón nhận gánh nặng
như một điều ưa thích.
Mức
độ 3 là khao khát nên giống Chúa: Đi xa hơn
nữa, nếu cả A và B đều giúp tôi gần Chúa
như nhau, tôn vinh Danh Chúa như nhau, tức là ư Chúa ngang nhau
cả đôi đàng, tôi sẽ chọn điều
khiến tôi nên giống Chúa Giêsu, Đấng đă chọn
nghèo hèn, bị thua thiệt, bị sỉ nhục... Đây
là dấu hiệu của một t́nh yêu đích thật, t́nh
yêu đem lại tự do như lời thánh Âu Tinh: “Cứ
yêu mến đi, rồi muốn làm ǵ th́ làm”.
Mỗi tối,
anh chị em cần nh́n lại xem ḿnh đă quan tâm quyết
định mọi chuyện lớn nhỏ trong ngày theo
hướng trên đây chưa. anh chị em cứ
thường xuyên chọn lựa như thế, con cái anh
chị em sẽ noi gương và trở thành những
người luôn quả cảm bước theo Chúa giữa
đời thường.
“Kinh nguyện gia đ́nh có
những đặc tính riêng của nó. Đó là một kinh
nguyện chung: vợ chồng cùng cầu nguyện
với nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện với
nhau. Sự hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa
quả vừa là đ̣i hỏi của sự hiệp thông
mà các bí tích Rửa Tội và Hôn Phối đă đem
lại. Các gia đ́nh Kitô hữu có thể áp dụng
được cho ḿnh một cách đặc biệt những
lời hứa hiện diện của Đức Giêsu:
“Quả thật, Ta bảo các con: nếu dưới
đất, hai người trong các con đồng thanh xin
về bất cứ việc ǵ, th́ Cha Ta, Đấng
ngự trên trời sẽ ban cho. V́ đâu có hai, ba
người họp lại nhân danh Ta, th́ có Ta ở đó,
giữa họ” (Mt 18,19-20). (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 59)
Trong hạnh
thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, ta đọc thấy: Năm
20 tuổi, ông Mỹ kết hôn với cô Maria Mến, con gái
Thánh Antôn Nguyễn Đích là ông trùm trong xứ. Cuộc
sống gia đ́nh đầm ấm hạnh phúc với tám
người con đạo hạnh, khiến dân làng ai cũng
mến phục kính nể. Dù đời sống gia đ́nh
và xă hội phức tạp, ông luôn sống xứng đáng
là một gia trưởng đạo đức
gương mẫu. Bà Mỹ kể lại rằng: “Gia
đ́nh tôi sống trong hoà thuận yêu thương. Ông Micae
chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng
ngày. Nếu vợ con hoăc người giúp việc bận rộn không đi lễ
được, ông bắt phải đọc kinh chung và
nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội
nhiều lần trong năm. Mỗi lần ông kỹ
lưỡng xét ḿnh từ hai ngày trước. Mùa Chay, ông
giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không
uống rượu, không đánh bạc hay to tiếng
với ai bao giờ.”
Cũng
như gia đ́nh thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, gia đ́nh anh
chị em hăy trung thành với giờ kinh sáng tối.
Giờ kinh
sáng là để ca mừng Đức Kitô đă phục sinh
đă cứu chuộc ta. Xin Thiên Chúa chúc lành cho ngày sống
của ta, cho mọi việc ta sắp làm. Tâm t́nh của giờ
kinh sáng là chúc tụng, hiến dâng và vững tin vào t́nh
thương Thiên Chúa luôn nâng đỡ ta trong cuộc
sống.
Nếu có
đi lễ sáng, mỗi người chỉ cần
đọc riêng kinh dâng ngày và một vài kinh thích đọc,
hoặc thinh lặng cầu nguyện dăm phút. Kinh dâng
ngày nên đọc khi vừa tỉnh dậy hoặc khi
vừa bước xuống khỏi giường. Nếu
không đi lễ sáng, cả nhà nên cầu nguyện chung.
Việc đọc kinh sáng chung thường khó hơn kinh
tối, nhưng nếu cố gắng, ta vẫn có thể
làm được phần nào.
Giờ kinh
tối là giờ tổng kết sau một ngày sống và
để chuẩn bị cho ngày hôm sau: ta cảm tạ
những ơn Chúa ban và thống hối mọi lỗi
lầm; ta cầu nguyện cho mọi người đă
gặp trong ngày và cho Hội Thánh khắp nơi; ta xin Thiên
Chúa chúc lành cho mọi việc đă làm trong ngày và cho ta
được qua một đêm b́nh an để sớm mai
thức dậy ta lại được dâng lời ca
ngợi Chúa. Nên thu xếp cầu nguyện sớm, liền
sau bữa ăn tối. Nên ăn tối đúng giờ
để đọc kinh đúng giờ.
Mùa Vọng,
Giáng sinh, Mùa Chay, Phục sinh, các lễ trọng, các tháng kính
Thánh Tâm, tháng kính Đức Mẹ, kính thánh Giu-se, kính
nhớ các tín hữu đă qua đời... cần chọn
những bài hát thích hợp.
Những
dịp đặc biệt, như các ngày kỷ niệm
trong gia đ́nh, nên có những
giờ kinh đặc biệt.
Trước
khi bắt đầu, người xướng kinh nhắc
ư cầu nguyện của giờ kinh. Cuối giờ kinh là
phân công và lời cuối ngày: Sau giờ kinh, nên nh́n tới
những công việc hôm sau và phân công, nhắc nhở. Theo
kinh nghiệm thánh Gioan Boscô, cha mẹ nên nói đôi lời
tốt đẹp chừng một phút (một câu châm ngôn,
hoặc một việc xảy ra trong đời sống,
kèm với cách suy nghĩ theo Tin mừng) để mọi
người đi ngủ với ư tưởng lành thánh.
Lời chia sẻ luôn kết thúc bằng: “Chúc cả nhà
ngủ ngon”. Cả nhà chúc lại người chia sẻ
ngủ ngon.
Kinh nguyện gia đ́nh có nội dung
độc đáo là chính cuộc sống gia đ́nh.
Qua những cảnh huống khác nhau, cuộc sống này
được diễn giải như một ơn gọi
từ Thiên Chúa mà đến và được thực
hiện như một câu trả lời hiếu thảo cho
lời mời gọi của Ngài: những vui mừng và
đau khổ, những hy vọng và buồn phiền,
những lần sinh con và những ngày sinh nhật, những
kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ, những
chuyến xa nhà và trở về, những chọn lựa
quan trọng và quyết liệt, cái chết của
những người thân yêu ... đều là những
dấu hiệu về sự hiện diện ưu ái
của Thiên Chúa trong cuộc sống gia đ́nh. Những
biến cố ấy cũng phải trở thành những
lúc thuận tiện cho lời tạ ơn, khẩn
nguyện, cho sự tin tưởng phó thác của gia
đ́nh trong bàn tay Cha chung trên trời. Đàng khác, phẩm
giá và trách nhiệm của gia đ́nh Kitô hữu, xét như
Giáo Hội tại gia, chỉ có thể được
sống với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên
Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu
nếu người ta biết thành khẩn nguyện xin
với ḷng tin cậy và khiêm tốn.” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 59)
Mỗi
dịp đặc biệt trong gia đ́nh có sinh hoạt
riêng của nó và giờ kinh tối cũng hoà theo đó.
Cần tránh những chuyện rườm rà. Nên lưu ư
nhiều đến những ǵ dễ gây thêm t́nh gia đ́nh,
giúp mọi người biết nghĩ đến
người khác: Dọn nhà cửa sạch sẽ, trật
tự, nhắc nhở cầu nguyện cho nhau, làm bó hoa
thiêng liêng tặng người được mừng
lễ, vv ... Mỗi người và mỗi gia đ́nh nên t́m
hiểu kỹ đường lối nên thánh của thánh
bổn mạng để noi theo.
Đầu
năm nên ghi ngay các ngày lễ gia đ́nh vào cuốn lịch
công giáo để dễ nhớ. Một số ngày lễ
đời hoặc đạo có tính gia đ́nh, cũng nên
ghi vào. Ví dụ: ngày Phụ nữ (8/3), ngày các bà mẹ (Chúa
Nhật thứ ba tháng Năm), ngày của những
người cha (Chúa Nhật thứ ba tháng Sáu), ngày của
ông bà nội ngoại (26/7) ...
Giờ kinh
cũng là lúc sống mầu nhiệm các thánh thông công,
hiệp thông với những người quá cố trong gia
đ́nh và gia tộc. Khi nhớ đến gia tiên tổ
phụ, người công giáo không làm một sự thờ
phượng bên ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa,
nhưng là để nhờ đó mà thêm ḷng biết ơn
và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi t́nh phụ tử
trên trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi
nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống,
người công giáo cũng nhớ đến các tổ
phụ trong đức tin.
Mỗi gia
đ́nh nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà
đă có bàn thờ th́ nhớ thắp hương,
đừng để hương tàn khói lạnh. Ngày
tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy
suốt ngày. Tránh những chi tiết trái đức tin và
tránh tốn kém không hợp t́nh hợp lư. Về h́nh
thức, chỉ cốt sao biểu lộ được
tấm ḷng và giúp các cháu nhỏ học được ḷng
biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo
Hoá.
Người
Việt Nam có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đ́nh có
việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia
tiên và biểu lộ tâm t́nh ấy bằng việc cúng
lễ. Lễ gia tiên thường do vị trưởng
tộc hoặc người cha trong gia đ́nh chủ
lễ. Nếu vị này vắng mặt th́ vợ hoặc
con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.
Người tín hữu công giáo Việt Nam tiếp nhận
truyền thống tốt đẹp ấy với một
cái nh́n chính xác, phù hợp với đức tin Kitô-giáo. H́nh
thức sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là
mỗi lần ra khỏi nhà và mỗi lần đi đâu
về, ta thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và
thinh lặng cầu nguyện giây lát.
Một trong
những ư nghĩa lớn của Kitô giáo là t́nh hiệp
thông: người tín hữu được kết hiệp
với Thiên Chúa và nhờ đó mà hiệp thông với nhau,
giữa những người đang sống trên trần
gian cũng như giữa người c̣n sống và
người đă qua đời.
Trước
mắt người ngoài công giáo, t́nh hiệp thông này lộ
rơ nơi dịp tang lễ. Nhiều người xúc
động khi thấy đông đảo tín hữu
đến an ủi gia đ́nh người quá cố,
cầu nguyện trong thời gian thi hài c̣n tại gia
đ́nh và ba buổi tối sau khi an táng. Người ta c̣n cảm
kích v́ sự mau mắn giúp đỡ và chia sẻ, với
tinh thần bác ái vô vụ lợi… Dù không bà con ruột
thịt, các tín hữu vẫn quan tâm chăm sóc nhau, yêu
thương nhau như con một nhà. Rồi những lúc
cộng đoàn không cầu nguyện chung, vẫn có một
hai người liên tục âm thầm cầu nguyện bên
người quá cố, giúp cho bầu khí thành trầm
lắng, linh thiêng, ấm cúng, đầy đức tin và
đức trông cậy.
Với tinh
thần hiệp thông, khi những gia đ́nh sống lẻ
loi ở xa có người đau ốm, giáo xứ cần
lưu tâm chăm sóc, và khi họ gặp cảnh tang chế,
càng cần hết sức cố gắng viếng thăm an
ủi. Cách riêng, với những gia đ́nh neo đơn
nghèo khổ, cần quan tâm giúp đỡ cả về
vật chất.
Nhiều gia
đ́nh người lương khi thân nhân chết v́ tai
nạn ngoài đường, rất ngại đưa
về nhà. Một số giáo xứ đă tạo
điều kiện để họ có thể quàn
người quá cố tại nhà tang lễ cộng đoàn
với những chăm sóc ân cần, đem lại một
an ủi lớn cho gia đ́nh nạn nhân. Đó là một
cách thể hiện mối thương người thứ
bảy về phần xác: thứ bảy chôn xác kẻ
chết.
Chính trong tang
lễ, người ta được nghe Tin Mừng về
sự sống, hiểu ra rằng mục đích cuộc
sống là để được hiệp nhất
với Thiên Chúa trong hạnh phúc đời đời, và sự
chết là cuộc vượt qua cần thiết
để tiến vào sự sống đời đời
ấy. Nên t́m dịp giải thích cho bà con lương dân
hiểu ư nghĩa của việc rảy nước thánh
trên thi hài, trên quan tài và trên huyệt. Tất cả là
để nhắc lại rằng người quá cố
đă được rửa tội, trở nên con cái Thiên
Chúa và thân xác họ đă trở nên đền thờ Chúa
Thánh Thần. Việc niệm hương cũng
được người Công Giáo thực hiện theo ư
nghĩa ấy.
Trong thời gian ṃ mẫm t́m cách giúp
người Việt hiểu đúng giáo lư Đạo Chúa,
các nhà truyền giáo gặp nhiều khó khăn trong việc
hội nhập văn hóa. Do đó suốt gần 200
năm, Giáo Hội không cho phép tín hữu Việt Nam thực
hiện việc thờ cúng tổ tiên theo lối cổ
truyền. Việc cấm đoán đă đưa
đến thành kiến “theo Đạo là bỏ ông, bỏ
bà”, khiến người ta tẩy chay Đạo Chúa.
Điều ấy c̣n trở thành một trong những lư do
biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn,
nhà Nguyễn và chiến dịch Văn Thân.
Giữa thế kỷ 20, mọi sự đă
thay đổi. Từ năm 1965, Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam đă tiếp nhận lại việc thờ
cúng tổ tiên theo cung cách Việt Nam. Nhiều gia đ́nh
Công Giáo đă lập lại bàn thờ gia tiên. Việc
thắp hương cầu nguyện đă thành b́nh
thường và tạo được thiện cảm
nơi bà con lương dân.
Tuy nhiên, để xóa sạch hiểu lầm,
người Công Giáo phải cố gắng đặc
biệt trong lănh vực này: cả nơi sự hiếu
thảo với cha mẹ c̣n sống lẫn sự thờ
kính ông bà tổ tiên.
Về bàn thờ gia tiên, khi có điều
kiện, tốt nhất là thực hiện gian thờ, có
màn che từ trên xuống dưới. Tuy nhiên, do cấu trúc
nhà ở ngày nay khác xưa, cũng có thể tùy nghi thực
hiện với h́nh thức sáng sủa và giản dị,
thấm nhuần màu sắc dân tộc và Kitô giáo. Có thể
đặt ngay dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có
sự phân biệt rơ ràng, hoặc có thể để ở
gian khác. Cần nhớ, một khi đă lập bàn thờ,
phải ǵn giữ sạch sẽ, tuyệt đối không
để bất cứ vật dụng linh tinh nào trên bàn
thờ. Phải chăm sóc hương đèn. H́nh thức
sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi
sớm, mỗi tối, mỗi lần đi xa về, ta
thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và thinh lặng
cầu nguyện một phút. Nếu thiếu ư thức và
quan tâm th́ thà đừng lập bàn thờ c̣n tốt hơn
là có bàn thờ mà để hương tàn, khói lạnh.
Các ban văn hóa, truyền giáo và gia đ́nh
trong giáo xứ cần quan tâm góp ư và hướng dẫn cho
các gia đ́nh về việc này.
Đạo Hiếu không dừng lại ở
bàn thờ gia tiên và các nghi thức lễ bái mà c̣n gồm
những kinh nghiệm khác có tác dụng rất lớn trong
việc giáo dục nhân bản, cách riêng là giáo dục t́nh gia
đ́nh và gia tộc. T́nh gia tộc được khẳng
định qua các bản gia phả, qua những ngày
giỗ, ngày tết.
Sinh hoạt gia tộc được duy tŕ
nhờ từ đường và ruộng hương
hoả, và cũng nhờ đó có những ḍng họ
giữ được gia phả từ nhiều thế
kỷ. Các gia đ́nh công giáo, do gián đoạn sinh hoạt
từ đường hơn hai trăm năm,
thường ít giữ được gia phả. Nhiều
gia tộc ngoài công giáo, dù không gián đoạn việc
thờ cúng ông bà nhưng, do chiến tranh, nay cũng bị
mai một cả gia phả, từ đường và
ruộng hương hoả. Từ ngày đất
nước hoà b́nh và thống nhất, dường như
khắp nơi đều rộ lên việc t́m lại
nguồn cội, nối lại gia phả. Có cả
những sách mẫu hướng dẫn làm gia phả và những
sáng kiến làm gia phả điện tử, gia phả trên
mạng. Thiết tưởng các gia đ́nh công giáo Việt
Nam cũng cần quan tâm đến việc này để có
thêm một lợi khí giúp vun trồng tinh thần
đạo lư cho các thế hệ mai sau. Nếu không thể
t́m lại những nguồn gốc xa xưa th́ ít là ghi
lại từ những vị tổ mà trong gia đ́nh c̣n
biết được.
Rất nhiều trường hợp, khi t́m
về cội nguồn, ta phát hiện quan hệ gần
gũi giữa những nhánh đồng tộc Công giáo và
ngoài Công giáo. Hai bên sẽ qua lại thăm viếng nhau,
cùng hiện diện trong những dịp giỗ đại
tộc. Nhờ đó, sẽ sớm xoá tan được
thành kiến “theo đạo bỏ ông bỏ bà”, rồi t́nh
thân giữa đôi bên sẽ gia tăng và việc chia sẻ
đức tin giữa những người đồng
tộc sẽ gặp nhiều thuận lợi.
Sau tết
Quư Tỵ 2013 vừa qua tại giáo xứ Song Mỹ
thuộc giáo phận Nha Trang, một số bạn trẻ
họ Vơ đă có sáng kiến xin cha sở một thánh
lễ cầu nguyện cho những người cùng họ
c̣n sống và đă qua đời. Với bức tâm thư
trang trọng gửi đến mọi gia đ́nh họ Vơ
trong giáo xứ, đă có trên 100 người đến
dự lễ. Sau thánh lễ hơn 50 người đă
ở lại gặp nhau tại hội trường giáo
xứ. Họ chia sẻ tâm t́nh thật chan ḥa rồi
thảo luận sôi nổi và đi đến bốn
quyết định: Thứ nhất, đề cử ra
một ban liên lạc họ Vơ Công giáo của giáo xứ;
thứ hai, mỗi lần có người họ Vơ trên
địa bàn giáo xứ qua đời, sẽ tặng
một ṿng hoa phúng điếu ghi ḍng chữ: "Ban Liên
lạc họ Vơ Công giáo giáo xứ Song Mỹ thành kính phân
ưu"; thứ ba: anh chị em đồng tộc Công
giáo sẽ nhắc nhau sống tốt hơn để
khỏi phụ ḷng bà con đồng tộc ngoài Công giáo;
Thứ tư: Từ đây về sau, mỗi năm tới
ngày này, đều xin lễ như thế và mỗi gia
đ́nh họ Vơ Công giáo sẽ mời một gia đ́nh
họ Vơ người lương đến dự thánh
lễ. Có thể lắm người được
mời sẽ không đến nhưng nhiều người
khác sẽ đến. Họ sẽ hiểu thế nào là gia
đ́nh con cái Chúa, sẽ hiểu cách người Công giáo tôn
kính và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Điều
nhóm anh chị em ấy đă làm, thiết tưởng
bất cứ nhóm đồng tộc nào tại mỗi giáo
xứ, dù đông người hay ít người, cũng
đều có thể làm được. Sau bao năm ly
loạn, khi ḥa b́nh lập lại, đa số người
ḿnh, lương cũng như giáo, hiện không c̣n gia
phả, không c̣n từ đường, lắm khi không c̣n
nhớ ngày giỗ của ḍng họ ḿnh. Thế nhưng khi
ta nhận biết Thiên Chúa là Cha, Ngài đă cho lại chúng ta
tất cả và c̣n hơn thế nhiều. Không c̣n gia
phả, nhưng chúng ta biết rơ ḿnh là anh em con một Cha
trên trời. Không c̣n từ đường nhưng chúng ta
lại có chung một nhà Chúa là từ đường
của muôn dân, bởi lẽ hai chữ từ
đường trong tiếng Hán dịch sang tiếng
Việt không ǵ khác hơn là nhà thờ. Có thể không c̣n
nhớ ngày giỗ của ḍng họ nhưng chúng ta có ngày
lễ của những vị thánh tử đạo cùng ḍng
họ. Trong số các thánh tử đạo người
Việt, có 28 vị ta không rơ thuộc họ nào; c̣n 69
vị khác thuộc về 17 ḍng họ: họ Bùi (2), họ
Đặng (1), họ Đinh (3), họ Đỗ (3),
họ Đoàn (3), họ Hà (2), họ Hồ (1), họ
Hoàng/Huỳnh (1), họ Lê (7), họ Nguyễn (24), họ
Phạm (5), họ Phan (3), họ Tạ (1), họ Tống
(1), họ Trần (4), họ Trương (2), họ
Vũ/Vơ (6).
Mỗi
năm trong mái ấm từ đường của trăm
họ tại giáo xứ liên tiếp có ngày giỗ Công giáo
của họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm, họ
Phan, họ Trần, vv… và các bà con đồng tộc
người lương cùng đến dự. Rồi
tới ngày tế hiệp của họ, họ lại
mời các đồng tộc Công giáo và cả vị
thủ từ của từ đường trăm họ
là cha xứ đến dự. Ḍng họ là con
đường thật hồn nhiên để ta
đến với anh em và đưa anh em đến
với Chúa. Ta có những cơ hội tốt nhất
để giải thích cho bà con lương dân hiểu giáo
lư của Hội Thánh Công giáo về Đạo Hiếu và
việc thờ cúng Tổ Tiên để giúp họ nhận
biết và thờ phượng Cội Nguồn muôn
đời muôn thuở là Cha trên trời.
Với hy
vọng ấy, mỗi tín hữu hăy gặp gỡ những
người Công giáo cùng ḍng họ trong giáo xứ, trao
đổi và thảo luận xem sẽ bắt đầu
công việc như thế nào. Họ nào loan Tin mừng cho
họ nấy: Rủ nhau sống tốt, hẹn nhau trong
một thánh lễ truyền thống hằng năm, và mời
bà con đồng tộc người lương cùng
đến dự.
Dĩ nhiên
việc gieo trồng không kém phần vất vả nhưng
rồi mùa gặt đến, giọng hân hoan, mặt
rạng rỡ, ta sẽ ôm những bó lúa trĩu nặng
trên tay mà trở về trong tiếng hát tạ ơn v́
những bà con cùng ḍng họ với ḿnh và cả nhiều
anh chị em khác đă trở nên con cái Chúa.
Then chốt
của truyền giáo là hun đúc tâm hồn truyền giáo cho
Kitô hữu từ khi c̣n non trẻ. Hướng tới
lễ Chị thánh Têrêxa, bổn mạng các xứ truyền
giáo, chúng ta cần t́m cách giúp các bạn trẻ có
được tâm t́nh của Chị Thánh: “Con khát khao
được yêu mến Chúa và làm cho Chúa được
yêu mến”.
Trách
nhiệm này trước hết thuộc về các gia đ́nh Kitô hữu. Các gia đ́nh vẫn
được Giáo Hội coi là những chủng viện và đệ tử viện đào tạo tinh thần truyền giáo. Các gia đ́nh c̣n góp phần
đặc thù cho công cuộc truyền giáo bằng cách vun trồng ơn
gọi thừa sai cho con cái ḿnh. Sớm hôm hăy thường
xuyên nhắc các cháu: “Lúa chín đầy đồng mà
thiếu thợ gặt” (Lc 10,2). Tổng quát hơn, gia đ́nh
sẽ “dạy cho con cái ngay từ khi c̣n thơ ấu
biết nhận ra t́nh yêu của Thiên Chúa đối với
mọi người” (Tông huấn Gia đ́nh, số 54) và mau
mắn quảng đại đáp lại.
Khi gây ư
thức truyền giáo cho các cháu nhỏ, ta cần tránh
biến các cháu thành những người tự tôn, như
thể ḿnh là người nắm vững chân lư. Chúng ta
cần dạy các cháu khiêm nhường trước ơn
Chúa và biết tôn trọng ḷng tin của người khác.
Các cháu sẽ hy sinh và cố gắng sống tốt không
phải “để làm gương” nhưng trước
hết là để người khác khỏi hiểu
lầm đạo Chúa, và có thể hiểu đúng thế
nào là tinh thần của Đạo thánh.
Tiếp sau
gia đ́nh là các lớp giáo lư. Chương tŕnh giáo lư theo
tuổi hiện áp dụng trong Giáo phận nhà,
được biên soạn theo hướng truyền giáo.
Giáo lư viên cần khắc sâu cho các em lư tưởng nên thánh,
theo gương các vị thánh trẻ, nam giới là
những thánh như: Saviô, Giuse Túc, Koska, Phanxicô Martô; nữ
giới th́ như: Maria Goretti, Laura Vicưnha, Giaxinta và chân
phước Antonia Meo mới 6 tuổi. Giữa những
hấp lực của xă hội tiêu thụ, các em cần
biết thốt lên như thánh Stanislas Koska: “Tôi sinh ra cho
những điều cao quư hơn.” Cần dạy cho các em
biết sống chứng nhân ở trường ở
lớp với cách ăn nói dịu dàng thanh lịch, trung
thực khi làm bài, mau mắn giúp đỡ mọi
người cách vô vụ lợi và biết quên ḿnh v́ ích
chung.
Đời
Kitô hữu xoay quanh bốn trục: tin, nhận, giữ,
cầu – tức là tín lư, bí tích, luân lư và cầu nguyện.
Dịp tốt nhất để người lương
tiếp cận cả bốn chiều kích ấy là lễ
cưới ở nhà thờ. Họ thường khen nghi
thức hôn phối trang trọng và giàu ư nghĩa. V́ thế,
nên mời các thành viên trong gia đ́nh cũng như bạn
hữu ngoài Công giáo tham dự thánh lễ hôn phối.
Những lúc nói chuyện trao đổi trước và sau
lễ, cũng như ở câu chuyện thân mật cởi
mở trong tiệc cưới, nếu được, nên
giải thích cho họ những điểm đáng chú ư trong
hôn nhân Kitô giáo. Từ đó cũng có thể đi xa hơn
để giải thích những thắc mắc về
Đạo. Tuy nhiên, cần giữ đúng chừng mực
và bầu khí thân t́nh, không biến câu chuyện thành buổi
giảng đạo và nhất là tránh đừng rơi vào
chỗ tranh căi lư thuyết.
Điều
đánh động trước mắt người ta chính
là nghi lễ. Do đó, cần nhắc nhở cô dâu chú
rể đến sớm để lễ nghi
được tốt đẹp ngay từ đầu.
Cũng nên tin cho vị giảng lễ biết đôi chút
về thành phần những người được
mời, để ngài dễ chăm sóc cho bài giảng
được súc tích, dễ hiểu và có chất
lượng.
Đặc
tính “một vợ một chồng” và “bất khả phân
ly” của hôn nhân Kitô giáo cần được chứng
thực bằng đời sống của các gia đ́nh con
cái Chúa, một đời sống hạnh phúc và triển
nở. Những dịp tổ chức kỷ niệm giáp
năm ngày cưới, cách riêng là 25 năm và 50 năm là
những dấu chứng rất thuyết phục. Các giáo
xứ nên chú ư tổ chức cho các gia đ́nh mừng
lễ.
- Có thể
tổ chức mỗi năm một lần vào lễ Thánh
Gia hay lễ hai thánh Gioakim và Anna,… dành riêng cho những
đôi giáp 5, 10, 20, 25, 30, 40 và 50 năm.
- Cũng có
thể chọn một ngày nhất định hằng
tháng, ví dụ như chiều Thứ Tư hay Thứ
Bảy đầu tháng, cho tất cả những đôi
mừng kỷ niệm trong tháng ấy. Cách này có cái lợi
là mọi gia đ́nh đều có dịp sống lại
ơn bí tích hằng năm.
Trong cả
hai trường hợp, nên nhắc các gia đ́nh liên
hệ, cả cha mẹ và con cái dọn ḿnh xưng tội
rước lễ.
“Các gia đ́nh Kitô hữu có
sứ mạng xây dựng Giáo Hội và Nước Chúa trong
lịch sử, cho nên cần phải ngoan ngoăn tuân phục
Chúa Kitô. Thật vậy, qua hôn nhân đă được nâng
lên hàng bí tích, Ngài trao cho các đôi bạn Kitô hữu một
sứ mạng tông đồ riêng biệt, đồng
thời sai phái họ như những người thợ
trong vườn nho của Ngài, và cách đặc biệt,
trong lănh vực gia đ́nh.
Việc tông đồ gia
đ́nh c̣n được triển nở dưới h́nh
thức những công tác bác ái về tinh thần cũng
như vật chất đối với các gia đ́nh khác
như: đối với những người đau
ốm, già cả, tàn tật, mồ côi, góa bụa, những
người chồng, những người vợ bị
bỏ rơi, những người mẹ độc thân và
những người mẹ trong t́nh huống khó khăn,
đang bị cám dỗ loại bỏ đứa con c̣n
trong ḷng dạ ḿnh, v.v...” (Tông Huấn Gia Đ́nh, số 71)
Tông Huấn
Gia Đ́nh, số 72 c̣n nhấn mạnh tới các hiệp
hội gia đ́nh nhằm phục vụ các gia đ́nh: “Cần phải nh́n nhận và coi trọng
các cộng đồng Giáo Hội khác nhau, các nhóm và rất
nhiều phong trào đang dấn thân vào mục vụ gia
đ́nh theo những cách thế khác biệt và với
những danh hiệu và mức độ khác nhau, mỗi
tổ chức đều có những đặc
điểm, mục tiêu, cách kết nạp và phương
pháp riêng. Thượng Hội Đồng Giám Mục đă
chính thức nh́n nhận sự đóng góp ích lợi của
những hiệp hội có tính cách tu đức, đào
tạo hay làm việc tông đồ như thế. Vai tṛ
của những hiệp hội này là làm dấy lên nơi
các tín hữu một ư thức bén nhạy về sự liên
đới; là tạo điều kiện thuận lợi
cho một nếp sống được gợi hứng do
Tin Mừng và do đức tin của Giáo Hội; là đào
tạo cho lương tâm của mọi người
biết theo giá trị Kitô giáo chứ không theo các tiêu
chuẩn của ư kiến đám đông; là khuyến khích
các công cuộc bác ái đang hướng về việc giúp
đỡ lẫn nhau hay hướng về người
khác với một tinh thần cởi mở, có sức làm
cho các gia đ́nh Kitô hữu trở thành thật sự là
nguồn sáng đích thực và là men lành mạnh cho các gia
đ́nh khác.”
Tại Việt Nam, hiện nay
một số hiệp hội tông đồ gia đ́nh có
tầm vóc quốc tế đă hiện diện ở
nhiều nơi. Cũng có những hiệp hội mang
tầm vóc quốc gia và những nhóm khác ở những quy
mô nhỏ hơn. Điều quan trọng là các gia đ́nh
trong cùng một giáo xứ hay một giáo họ gặp
gỡ nhau để cùng ư thức và cùng t́m kiếm một
mô h́nh thích hợp với địa phương ḿnh.
Tông huấn Gia đ́nh, số 52,
viết: “Tương lai việc Phúc âm hóa tùy thuộc
phần lớn nơi Hội Thánh tại gia. Sứ
mạng tông đồ ấy của gia đ́nh bắt
nguồn từ Bí tích Thánh Tẩy và qua Bí tích Hôn phối
họ đă nhận được một sức
đẩy mới để truyền đạt
đức tin, để thánh hóa và biến đổi xă
hội hiện tại theo ư định của Thiên Chúa.”
Tông huấn cũng nhắc nhở các gia đ́nh có trách
nhiệm làm tông đồ lẫn cho nhau.
Qua nhiều thập niên thiếu vắng linh
mục, hoàn cảnh tôn giáo của nhiều gia đ́nh
hiện c̣n gặp khó khăn chưa được ổn
định. Để xúc tiến việc truyền giáo
đối nội, tức là nâng cao phẩm chất Kitô giáo
của các gia đ́nh tín hữu, mỗi giáo xứ cần
chú ư củng cố tối đa cho những gia đ́nh
đă ổn định về mặt tinh thần. Cần động viên để
từng gia đ́nh tận hiến cho trái tim Chúa Giêsu và Mẹ
Maria, cùng nhau cam kết sống đạo và truyền giáo.
Ban truyền giáo giáo xứ và ban mục vụ gia đ́nh
sẽ phối hợp để giúp những gia đ́nh
đă ổn định trở thành chỗ dựa cho
những gia đ́nh khác sớm tiến tới ổn
định. Cụ thể là thực hiện sổ gia
đ́nh công giáo, giúp hợp thức hóa hôn phối, giúp thanh
thiếu niên và nhi đồng hoàn tất việc học
giáo lư theo tuổi ḿnh, nhắc nhở nhau đi lễ Chúa
Nhật. Cần tạo điều kiện để
những gia đ́nh có phẩm chất làm chứng cao, có
thể liên kết thành nhóm hạt nhân.
Việc giúp các gia đ́nh làm tông đồ
lẫn cho nhau sẽ hữu hiệu hơn khi các gia đ́nh
được liên kết thành những nhóm nhỏ liên
cư liên địa. Ngoài ra c̣n có sự góp phần của
những phong trào tông đồ gia đ́nh: hội các bà
mẹ, legio, huynh đoàn, nhóm chia sẻ Lời Chúa, gia
đ́nh cùng theo Chúa, gia đ́nh Khôi B́nh, vv... Đặc
biệt cần nâng đỡ những gia đ́nh tiền
phong, dấn thân đến những vùng chưa có ánh sáng Tin
Mừng và hỗ trợ những gia đ́nh lẻ loi.
Giữa lúc cơ cấu gia đ́nh trên thế
giới đang gặp khủng hoảng, các gia đ́nh con
cái Chúa cần chia sẻ cho nhau kinh nghiệm xây đắp
gia đ́nh hạnh phúc, tạo thành một môi trường
mới, để nâng đỡ chính ḿnh và để làm
chứng cho Đạo Chúa.
Tháng 5 năm 1984, Đức
Gioan Phaolô II viếng thăm Nam Hàn, nhân dịp mừng kỷ niệm 200 năm
lănh nhận Tin Mừng, và tôn phong 103 Chân phước Tử
đạo Đại Hàn lên bậc Hiển Thánh; số
người Công Giáo lúc đó khoảng 1 triệu 700 ngàn. Sau
chuyến viếng thăm ấy, các Giám mục Nam hàn tung ra
chiến dịch truyền giáo: "Mỗi gia đ́nh Công
Giáo phải đưa một gia đ́nh ngoài Công Giáo trở
lại". Tháng 10 năm 1989, sau 5 năm, Đức Thánh
Cha trở lại viếng thăm Nam Hàn một lần
nữa nhân dịp Đại hội Thánh Thể quốc
tế được tổ chức tại Seoul, số người Công Giáo Nam Hàn
đă lên tới hai triệu rưởi. Năm 2000, số
linh mục Nam Hàn là 2.891 vị, tăng 10 lần so với
năm 1962; số giám mục bản xứ là 23 vị;
số người công giáo là 4 triệu 71 ngàn,
được chia thành 15 giáo phận và 1.228 giáo xứ.
(Theo số liệu đài Chân Lư Á Châu). Hiện nay, tỉ
lệ người Công giáo đđang chiếm hơn 11% dân
số Nam Hàn. Hội Đồng Giám mục Nam
Hànđđang mời gọi mọi thành phần Dân Chúa tích
cực hành động cho mục tiêu 20-20, có nghĩa là
nỗ lực cầu nguyện, sống và truyền giáo
để tới năm 2020, tỉ lệ người Công
giáo sẽ lên tới 20% dân số.
Noi gương và chạy
đua với anh chị em tại Nam Hàn, mỗi gia đ́nh
Công Giáo Việt Nam cũng được mời gọi cam
kết hy sinh và cầu nguyện cho công cuộc truyền
giáo.
Mỗi tuần một lần, sau giờ
đọc kinh tối sẽ dành thời giờ chia sẻ
về truyền giáo, nhắc nhau nỗ lực đổi
mới đời sống, vui chịu thiệt tḥi và
thử thách để cầu nguyện cho lương dân
trở lại. Cũng đừng quên nhắc nhau dành
dụm, góp phần lo việc truyền giáo.
Nỗ lực giáo dục con em. Ngỏ lời
với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại
Rôma ngày 27-6-2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 nói:
“Điều rất đáng mong ước là khi dạy cho
con cái biết sống theo lương tâm ngay thẳng, trong
sự liêm chính và sự thật, th́ mỗi gia đ́nh công
giáo trở nên trung tâm các giá trị và đức tính nhân
bản, một trường dạy đức tin và
đức mến đối với Thiên Chúa. Bằng
đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm
chính, việc quư trọng công ích, anh chị em giáo dân
phải chứng tỏ rằng là người công giáo
tốt cũng là người công dân tốt.”
Nhiều người vẫn có nghĩ tới
việc cầu nguyện cho người ngoại trở
lại nhưng không kết quả v́ chỉ cầu
nguyện cách hờ hững, thiếu nghiêm túc. Từ kinh
nghiệm ấy, khi tha thiết hy sinh cầu nguyện cho
người khác được ơn đức tin, các gia
đ́nh Công Giáo cần có sự chú tâm tŕu mến.. Cả nhà
cùng nhau hiệp ư cầu nguyện với cả tấm
ḷng.
Mọi người trong nhà sẽ trao
đổi để tập trung cầu nguyện cho
một gia đ́nh. Giữa những gia đ́nh thân quen và
đă có thiện cảm với Đạo Chúa, gia đ́nh
nào xét thấy có nhiều triển vọng hơn, ta sẽ
ưu tiên cầu nguyện cho gia đ́nh ấy. Mỗi
tối trước khi đọc kinh, cả nhà sẽ
nhắc tên gia đ́nh ấy, kể cho nhau những thông tin
về gia đ́nh ấy để dâng giờ kinh cầu
nguyện cho họ được b́nh an hạnh phúc và
được ơn đức tin. Ai vắng mặt th́
khi đọc kinh riêng cũng hiệp chung cùng một ư
nguyện ấy. Cũng cần nhắc nhau thêm hy sinh chay
tịnh để lời nguyện thêm tha thiết và
sớm được Chúa nhậm lời. Theo gương
người bạn hỏi mượn bánh (x. Lc 11,5-8) và bà
góa nghèo khiếu nại (x. Lc 18,1-7), ta cần cầu
nguyện cách kiên tâm, với ḷng tin tưởng trông
cậy.
Cùng với lời cầu nguyện, ta cần
quan tâm hỏi han thăm viếng gia đ́nh ấy, chia vui
sẻ buồn và gia tăng t́nh hiệp thông, đồng
cảm. Khi họ đă muốn tiến xa hơn, ta mời
họ tham gia những sinh hoạt thích hợp trong giáo
xứ: sinh hoạt hiệp thông vui tươi, bác ái
hoặc phụng vụ.
Mỗi hạt giống đều có thể
gặp đủ những hoàn cảnh thử thách khác nhau
như vệ đường, sỏi đá, nắng và gai
góc. Nhờ gặp gỡ và chuyện văn chia sẻ, ta có
thể nhận ra những thử thách đang chờ
họ và chân thành giúp họ vượt qua.
Đă chọn cầu nguyện cho gia đ́nh
nào, ta cần ưu ái chú tâm lo cho gia đ́nh ấy. Sự
chú tâm này đ̣i ta phải cố gắng và hy sinh. Tuy nhiên
mọi vất vả sẽ được bù đắp
trong niềm vui nh́n thấy những người anh em ḿnh
được hưởng ơn cứu rỗi, và hơn
nữa, được biết rằng những
người anh em ấy đang trở thành men Tin Mừng
cho những người khác.
Một sự kiện khá phổ biến trong
những thập niên gần đây là có rất nhiều
người ngoài Công giáo đến với Mẹ Maria và
nhận được ơn chữa lành phần xác, ơn
ḥa hợp gia đ́nh, và từ đó ngày càng thêm ḷng kính
mến Đức Mẹ. Họ thường gắn bó
với các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ.
Chúng ta cần sớm phát hiện những trường
hợp ấy và mau mắn giúp đỡ để
những tâm hồn ấy và gia đ́nh họ nhờ Mẹ
Maria mà được đến với Chúa Giêsu Kitô
Cứu Thế.
V́ họ đă yêu mến Đức Mẹ, ta
nên chỉ dẫn cho họ bày tỏ ḷng yêu mến ấy
bằng việc tôn sùng mà Mẹ rất thích là lần
hạt Mân Côi – và rồi từ các sự kiện trong
bốn mùa vui, sáng, thương và mừng của chuỗi
hạt Mân Côi, ta giúp họ hiểu biết rơ hơn về
mầu nhiệm Chúa Kitô và ơn cứu chuộc của Ngài.
Về phần ḿnh, chúng ta cần biết noi
gương Đức Mẹ để giới thiệu
Chúa Kitô cho mọi người. Noi gương Mẹ, chúng
ta rắc gieo hạt giống Tin Mừng bằng cách
sống thật dễ thương với mọi
người, để lại trong ḷng mọi người
một h́nh ảnh thật đẹp về người
Kitô hữu: vui tươi, hiền ḥa, quảng đại,
khiêm nhường và tận tâm phục vụ.
Noi gương Đức Mẹ ở Cana,
chúng ta quan tâm tới nỗi ḷng và khó khăn của
người khác và giúp họ lắng nghe lời Chúa: “Hỡi tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hăy đến với
Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Có người tưởng rằng khi loan báo
Tin Mừng phải nói những chuyện cao xa. Loan báo Tin
Mừng không phải là giảng dạy thần học
nhưng là chia sẻ kinh nghiệm sống sự hiện
diện của Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa, kinh
nghiệm đọc, suy niệm và sống Lời Chúa.
Một cách đơn sơ là đưa người ta
đến với Đức Mẹ. Khi họ gặp khó
khăn, nên khuyến khích họ cầu nguyện với
Đức Mẹ. Khi họ được ơn
Đức Mẹ, nên khuyến khích họ đáp
đền bằng cách yêu mến Chúa Giêsu, con Ngài. Hiểu
như thế th́ khắp nơi, mọi lúc trong mọi
việc, ta đều có thể loan báo Tin Mừng. Hăy tâm
sự với Đức Mẹ và cầu xin ơn Chúa Thánh
Thần, rồi cứ bắt đầu, và dần dần
sẽ biết cách kết hợp việc làm ăn và
mọi sinh hoạt khác với việc truyền giáo
thật hồn nhiên, nhẹ nhàng.
MỤC LỤC
PHẦN I: MỐI
BẬN TÂM HIỆN NAY CỦA HỘI THÁNH VỀ GIA Đ̀NH
I. THÔNG CÁO CỦA
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ VIỆC TÔN
KÍNH TỔ TIÊN
II. QUYẾT ĐỊNH
VỀ LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN
III. THƯ CHUNG 2007
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ GIÁO
DỤC KITÔ GIÁO: GIÁO DỤC HÔM NAY, XĂ HỘI VÀ GIÁO HỘI
NGÀY MAI
IV. THƯ CHUNG 2013
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM GỬI
CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA: HỘI THÁNH CÔNG GIÁO TẠI
VIỆT NAM VÀ CÔNG CUỘC TÂN PHÚC ÂM HÓA
V. THƯỢNG HỘI
ĐỒNG ĐẶC BIỆT VỀ GIA Đ̀NH
PHẦN II: MỘT
SỐ CHỈ DẪN THỰC HÀNH
I. GIA Đ̀NH GIÁO DỤC
01. Giáo dục từ
trong bào thai
02. Giáo dục trẻ
sơ sinh
03. Giáo dục tuổi
vào đời
04. Giáo dục bằng
gương sáng
05. Giáo dục theo các giá
trị chính yếu của đời người
06. Dạy con cái
biết cầu nguyện
07. Dạy con cái
hướng tới nhân đức
08. Đào tạo các nhân
đức căn bản
09. Đào tạo trí phán
đoán
10. Đào tạo
đức công bằng
11. Đào tạo tinh
thần ích chung
12. Đào tạo tinh
thần kỷ luật và từ bỏ
13. Đào tạo tinh
thần phục vụ
14. Đào tạo t́nh bác
ái và ḷng hiếu khách
15. Đào tạo sự
thành thật
16. Đào tạo sự
khiêm nhường
17. Đào tạo ḷng yêu
mến Lời Chúa
18. Đào tạo tinh
thần Hội Thánh
19. Đào tạo tinh
thần phụng vụ
20. Đào tạo tinh
thần truyền giáo
21. Đào tạo t́nh gia
đ́nh
22. Đào tạo t́nh gia
tộc
23. Phát huy truyền
thống đạo hiếu
24. Tôn trọng con cái
25. Lo cho con cái học
giáo lư
26. Chăm sóc việc
học của con cái
27. Gieo mầm ơn
gọi
28. Việc chuẩn
bị hôn nhân
29. Tủ sách gia đ́nh
30. Các phương
tiện truyền thông xă hội
II. GIA Đ̀NH SỐNG
ĐẠO
01. Gia đ́nh là Hội
Thánh nhỏ
02. Noi gương gia
đ́nh Nadarét
03. Một bầu khí
hạnh phúc và thánh thiện
04. Phẩm giá
người phụ nữ
05. Người nam là
chồng và là cha
06. Những
người già cả trong gia đ́nh
07. Hưởng ứng
tiếng gọi hoán cải
08. Phát huy ba nhân
đức tin, cậy, mến
09. Gia đ́nh sống
bác ái
10. Nên thánh trong việc
bổn phận hằng ngày
11. Sắp xếp
việc nhà để nên thánh
12. Quả cảm theo
Chúa giữa đời thường
13. Giờ kinh sáng
tối
14. Giờ kinh cho
những dịp đặc biệt trong gia đ́nh
15. Chia sẻ và hiệp
thông trong tang lễ
16. Bàn thờ gia tiên và
t́nh đồng tộc
17. Dưới mái
từ đường của trăm họ
III. GIA Đ̀NH TRUYỀN
GIÁO
01. Giúp bạn trẻ
học truyền giáo
02. Loan báo Tin Mừng qua
lễ hôn phối
03. Gia đ́nh làm tông
đồ cho gia đ́nh
04. Các gia đ́nh liên
kết giúp nhau sống đạo
05. Gia đ́nh hy sinh và
cầu nguyện cho truyền giáo
06. Theo dơi chăm sóc
hạt nẩy mầm
07. Qua Mẹ Maria
đến với Chúa Giêsu
TỦ SÁCH NƯỚC MẶN
NHỮNG SÁCH ĐĂ
XUẤT BẢN:
1. HAI CHỊ EM LƯU
LẠC. Tiểu thuyết trẻ em
Tác giả: Lm. Phêrô Lục
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2012
2. TÂM T̀NH DÂNG MẸ. 31
bài suy niệm về Mẹ Maria
Tác giả: Phaolô Huỳnh Các
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2012
3. LUÂN LƯ KITÔ GIÁO QUA
MƯỜI ĐIỀU RĂN
Trọn bộ 2 quyển
Tác giả: ĐGM Matthêô Nguyễn
Văn Khôi
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2013
4. THẦN HỌC
VỀ SỰ HOÀN THIỆN KITÔ GIÁO
Tác
giả: Lm. Giuse Phạm Thanh
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2013
5. VỀ VỚI
CỘI NGUỒN
Tác giả: Lm. Trăng Thập
Tự Vơ Tá Khánh
Nhà xuất bản Phương
Đông – 2013
6. LẠY TRỜI
MƯA XUỐNG. Thơ
Tác giả: Mạc Tường
Nhà xuất bản Hồng
Đức – 2013
7. BƯỚC THEO
THẦY GIÊSU
Tác giả: Lm. Trăng Thập
Tự
Nhà xuất bản Hồng
Đức - 2013
8. CHUÔNG CHIỀU
Nhiều tác giả
Nhà xuất bản Hồng Đức – 2013
[1] Xem HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Thư chung 2013 gửi cộng đồng Dân Chúa (10.10.2013), số 5.
[2] Xem Thư chung 2013, số 6.
[3] Đức giáo hoàng Phanxicô, Lumen fidei, số 37.
[4] Nt., số 51.
[5] Sứ điệp FABC X.
[6] Đức Chân phước Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội XIX của CELAM, Port-au-Prince, 1983 .
[7] HĐGMVN, Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 43.
[8] Theo tài liệu của cha Joseph Colomb trong “Le service de l' Evangile”